Phần lớn bệnh nhân ung thư và những người sống chung với ung thư đều mắc nợ cho chi phí y tế
Mạng lưới hành động về ung thư của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (American Cancer Society Cancer Action Network ACS CAN) trao quyền cho những người ủng hộ trên toàn quốc để tiếng nói của họ được lắng nghe và tác động đến sự thay đổi chính sách công dựa trên bằng chứng, cũng như các giải pháp lập pháp và quản lý sẽ giảm gánh nặng ung thư.
Là một phần của nỗ lực này, ACS CAN triển khai các cuộc khảo sát để hiểu rõ hơn về trải nghiệm và quan điểm của bệnh nhân ung thư và người sống chung với ung thư thông qua ban khảo sát “Quan điểm của người bệnh ung thư”. Ban này là một nhóm gồm các bệnh nhân ung thư và những người sống chung với ung thư khi trả lời các cuộc khảo sát thường xuyên và cung cấp những hiểu biết quan trọng để hỗ trợ công việc vận động chính sách của ACS CAN ở tất cả các cấp chính quyền.
Được thực hiện từ ngày 18 tháng 3 đến ngày 14 tháng 4 năm 2024, cuộc khảo sát khám phá về các khoản nợ y tế ở những bệnh nhân ung thư và những người sống chung với ung thư cũng như các công cụ tài chính và giải pháp chính sách để giải quyết nợ y tế.
Cuộc khảo sát trực tuyến được thực hiện với 1.284 bệnh nhân ung thư và những người sống chung với ung thư trên toàn quốc đã được chẩn đoán hoặc điều trị ung thư trong 7 năm qua, bao gồm 599 người đã từng mắc nợ chi phí y tế liên quan đến bệnh ung thư của họ và 456 người hiện đang mắc nợ chi phí y tế liên quan đến bệnh ung thư của họ.
🚩Những phát hiện chính:
📌Gần một nửa số bệnh nhân ung thư và những người sống chung với ung thư được khảo sát (47%) đã có mắc nợ chi phí y tế liên quan đến bệnh ung thư của họ và phần lớn trong số họ (49%) đã phải gánh khoản nợ y tế hơn 5.000 USD.
📌69% đã mang khoản nợ này trong hơn một năm và hơn một-phần-ba (35%) đã mắc nợ chi phí y tế liên quan đến bệnh ung thư của họ trong hơn ba năm.
📌Gần như tất cả (98%) đều được bảo hiểm tại thời điểm phát sinh khoản nợ, phổ biến nhất là theo chương trình bảo hiểm sức khỏe có mức khấu trừ cao mà không có tài khoản tiết kiệm sức khỏe (34%).
📌Ý nghĩa về mặt sức khỏe là rất đáng kể: những người mắc nợ chi phí y tế liên quan đến ung thư có nguy cơ bị chậm trễ trong việc kiểm tra ung thư được khuyến nghị cao gấp ba lần (18% so với 5%),
📌27% những người mắc nợ y tế liên quan đến ung thư đã không có đủ thức ăn,
và 📌25% đã bỏ qua hoặc trì hoãn việc chăm sóc.
❗️Hậu quả tài chính của nợ chi phí y tế liên quan đến ung thư cũng có thể rất đáng kể: gần một nửa (49%) thấy điểm tín dụng của họ giảm và 30% gặp khó khăn trong việc đủ điều kiện vay vốn.
📌Những người được hỏi ủng hộ cách tiếp cận nhiều mặt để giải quyết nợ y tế, với một số cải tiến chính sách được coi là hữu ích trong việc giảm gánh nặng nợ y tế đối với bệnh nhân ung thư và những người sống chung với ung thư.
Kết quả khảo sát chi tiết:
🚩Gần một nửa số bệnh nhân ung thư và những người sống sót mắc nợ y tế liên quan đến bệnh ung thư của họ
Gần một nửa số bệnh nhân ung thư và những người sống sót được khảo sát (49%) đã mắc nợ chi phí y tế chung và 47% mắc nợ chi phí y tế liên quan đến bệnh ung thư của họ.
13% khác dự đoán khoản nợ phát sinh liên quan đến bệnh ung thư của họ trong tương lai (chủ yếu là những người mới được chẩn đoán gần đây), trong khi 34% nói rằng họ có thể hoặc mong đợi có thể chi trả cho việc chăm sóc bệnh ung thư của mình mà không phải gánh nợ. Trong số những người được chẩn đoán trong vòng ba năm qua, 50% mắc nợ liên quan đến bệnh ung thư và 18% mong đợi điều đó trong tương lai.
Hình 1
Ngay cả trong số những hộ gia đình có thu nhập cao nhất (những hộ có thu nhập hàng năm trên 125.000 USD), hơn một phần ba (37%) đã không thể chi trả cho việc chăm sóc bệnh ung thư nếu không phải gánh chịu nợ y tế.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy sự gia tăng chẩn đoán ung thư ở các nhóm tuổi trẻ hơn và những bệnh nhân ung thư trẻ hơn cũng như những người sống sót bị ảnh hưởng đặc biệt bởi nợ y tế.
📌70% những người ở độ tuổi 35-44 và 65% những người ở độ tuổi 45-54 phải gánh khoản nợ y tế liên quan đến bệnh ung thư của họ.
Bệnh nhân da màu và những người sống sót sau ung thư có nhiều khả năng báo cáo nợ y tế liên quan đến ung thư hơn những người khác (59%), cũng như tổng số tiền và thời gian mắc nợ ung thư cao hơn (lưu ý bên dưới).
Hình 2
📌Trong số những người mắc nợ y tế liên quan đến ung thư, khoảng một nửa (49%) đã mang khoản nợ hơn 5.000 USD.
69% đã mắc nợ chi phí y tế trong hơn một năm và hơn một phần ba (35%) đã mắc nợ y tế liên quan đến bệnh ung thư của họ trong hơn ba năm.
Gánh nặng thậm chí còn lớn hơn đối với những người da màu trả lời, những người từng mắc nợ liên quan đến bệnh ung thư của họ; 57% báo cáo khoản nợ ung thư hơn 5.000 USD và 44% cho biết khoản nợ này đã kéo dài hơn ba năm.
📌Những người mắc nợ chi phí y tế liên quan đến ung thư thường mắc nhiều loại nợ. Các hóa đơn y tế chưa thanh toán của bệnh viện, cơ sở y tế (72%) và các khoản nợ khác trực tiếp với nhà cung cấp như kế hoạch thanh toán (45%) là phổ biến nhất.
📌30% mắc nợ liên quan đến ung thư trên thẻ tín dụng tiêu dùng thông thường trong khi 21% mắc nợ trên thẻ tín dụng y tế.
22% đã nợ bạn bè và gia đình vay nợ để trang trải chi phí chăm sóc bệnh ung thư của họ, trong khi 15% đã sử dụng các khoản vay ngân hàng bao gồm các khoản vay trả góp và hạn mức tín dụng thế chấp nhà để chi trả cho việc chăm sóc bệnh ung thư.
📌Bệnh viện là nhà cung cấp dịch vụ y tế phổ biến nhất mà bệnh nhân ung thư và những người sống chung với ung thư mắc nợ, với 76% trong số đó mắc nợ chưa chi trả cho bệnh viện phải. Để so sánh, 47% đã mắc nợ bác sĩ ung thư của họ, tiếp theo là các chuyên gia khác (37%), bác sĩ xạ trị (26%) và BS hóa trị (19%), khi những người này tách biệt với bệnh viện.
Hình 3
Phẫu thuật (51%), chẩn đoán hình ảnh (50%) và xét nghiệm chẩn đoán (48%) là những nguồn đáng kể nhất của các hóa đơn y tế chưa thanh toán hoặc các khoản nợ khác liên quan đến chăm sóc ung thư, tiếp theo là hóa trị (39%). Thuốc dược phẩm (32%) và xạ trị (31%) được đề cập bởi chỉ dưới một phần ba số người mắc nợ y tế liên quan đến ung thư, trong khi vật lý trị liệu (15%), liệu pháp miễn dịch (13%) và chăm sóc/điều dưỡng dài hạn (4%) ít được coi là nguồn nợ y tế đáng kể.
Hình 4
🚩Gần như tất cả các khoản nợ y tế liên quan đến ung thư đều được bảo hiểm khi phát sinh nợ
📌Hơn một nửa (55%) bệnh nhân ung thư và những người sống chung ung thư mắc nợ chi phí y tế liên quan đến bệnh ung thư của họ được bảo hiểm bởi chương trình bảo hiểm do người sử dụng lao động cung cấp như là khoản bảo hiểm chính của họ tại thời điểm họ tích lũy nợ.
📌Chỉ (24%) đã đăng ký tham gia Medicare và 10% được bảo hiểm bởi chương trình bảo hiểm tư nhân hoặc chương trình bảo hiểm thị trường.
📌5% đã đăng ký Medicaid và chỉ có 2% không có bảo hiểm nào cả.
Đa số (34%) đã đăng ký vào chương trình có mức khấu trừ cao mà không có tài khoản tiết kiệm sức khỏe (HSA), trong khi 19% được chi trả bởi chương trình có mức khấu trừ thấp và 12% có chương trình sức khỏe có mức khấu trừ cao có HSA.
📌19% khác không chắc họ đã có loại kế hoạch nào vào thời điểm đó và 8% đã thay đổi kế hoạch trong thời gian họ tích lũy nợ liên quan đến bệnh ung thư.
Hình 5
📌Hai phần ba (67%) những người hiện đang mắc nợ liên quan đến việc chăm sóc bệnh ung thư của họ kỳ vọng chính sách chăm sóc y tế của họ sẽ trang trải nhiều chi phí chăm sóc bệnh ung thư hơn so với thực tế.
📌30% những người mắc nợ liên quan đến việc chăm sóc bệnh ung thư sẽ thay đổi điều gì đó trong cách điều trị nếu họ biết mình sẽ mắc nợ y tế, chẳng hạn như tìm kiếm các BS, BV ít tốn kém hơn (11%), từ chối một số phương pháp điều trị (11%), hoặc thậm chí còn giảm bớt tất cả các điều trị (2%).
📌Gần như tất cả (97%) những người hiện đang mắc nợ chi phí y tế liên quan đến bệnh ung thư đều lo ngại về khả năng chi trả chi phí chăm sóc sức khỏe của mình, với 57% rất lo ngại.
📌Tương tự, 98% những người hiện đang gánh khoản nợ liên quan đến ung thư lo ngại về việc phát sinh thêm nợ khi họ sử dụng hệ thống chăm sóc sức khỏe, với 63% rất lo ngại.
🚩Những người mắc nợ liên quan đến ung thư có khả năng bị chậm trễ “gấp ba lần” so với các cuộc kiểm tra sức khỏe được khuyến nghị, trong số các tác động sức khỏe khác
📌Những người hiện đang mắc nợ do chăm sóc bệnh ung thư cho biết nợ y tế của họ đã ảnh hưởng đến dịch vụ chăm sóc sức khỏe mà họ nhận được theo một số cách. Điều quan trọng là, họ ít có khả năng cập nhật thông tin cập nhật về các cuộc kiểm tra ung thư được đề xuất so với những người có khả năng chi trả cho việc chăm sóc bệnh ung thư của mình mà không mắc nợ
📌77% những người hiện đang mắc nợ đã cập nhật thông tin về các cuộc kiểm tra của họ so với 94% trong số những người có khả năng chi trả—và có khả năng họ nói rằng họ không cập nhật thông tin về các lần khám sàng lọc ung thư được khuyến nghị cao hơn ‘gấp ba lần’ so với những người có khả năng chi trả cho các phương pháp điều trị ung thư mà không mắc nợ (18% so với 5%).
📌Một phần tư (25%) đã trì hoãn hoặc bỏ qua việc chăm sóc y tế để tránh nợ thêm.
📌Một phần năm (21%) được yêu cầu đăng ký gói thanh toán hoặc thẻ tín dụng y tế trước khi được điều trị
và 📌14% được yêu cầu thanh toán đầy đủ trước khi được điều trị.
Hình 6
Ngoài những rủi ro như chẩn đoán bị trì hoãn hoặc bỏ sót do không thực hiện chăm sóc và sàng lọc ung thư theo khuyến nghị, việc mắc nợ y tế còn có những tác động khác đối với sức khỏe bệnh nhân.
📌Gần một nửa số người mắc nợ liên quan đến bệnh ung thư cho biết họ có tác động tiêu cực đến sức khỏe tâm thần (47%), trong khi hơn 1/4 cho biết họ không có đủ thức ăn do nợ nần (27%).
📌27% khác nói rằng họ không được khỏe mạnh như mong muốn do ảnh hưởng của nợ y tế.
📌Các nghiên cứu gần đây đã liên kết sự cô lập với xã hội với kết quả tiêu cực về sức khỏe và 19% những người mắc nợ y tế liên quan đến ung thư cho biết họ tránh giao tiếp với bạn bè hoặc gia đình do nợ nần.
📌10% nói rằng họ bị bệnh do không được chăm sóc vì nợ nần.
Hình 7
🚩Nợ y tế liên quan đến ung thư có tác động tài chính rộng lớn
Những người mắc nợ chi phí y tế liên quan đến bệnh ung thư của họ cũng phải chịu những tác động tài chính nặng nề.
📌Đa số báo cáo rằng họ không thể gửi tiền vào tiết kiệm (60%), trong khi gần một nửa (49%) cho biết điểm tín dụng của họ bị ảnh hưởng và 46% cảm thấy bị chủ nợ và người đòi nợ quấy rối.
📌30% gặp vấn đề về tín dụng và gặp khó khăn trong việc đủ điều kiện vay vốn.
📌18% cân nhắc việc nộp đơn xin phá sản và 6% khác cuối cùng đã nộp đơn xin phá sản.
📌11% cho biết BS đã đe dọa khởi kiện họ và 4% cho biết BS đã nộp đơn kiện.
📌8% mất nhà hoặc phải sống ở một nơi mà họ không cảm thấy an toàn do nợ y tế.
Hình 8
🚩Trải nghiệm cá nhân của bệnh nhân ung thư và những người sống chung ung thư đã làm sáng tỏ mức độ nợ y tế có thể phải trả…
“Tôi đã đi chụp quang tuyến vú và cuối cùng phải siêu âm, xét nghiệm máu, v.v. Tôi dự kiến sẽ không phải trả gì cho việc sàng lọc và cuối cùng phải trả hơn 5.000 đô la cho hóa đơn. Tôi phải được sàng lọc 6 tháng một lần và tôi sẽ không bao giờ trả hết nợ trước lần sàng lọc tiếp theo. Tôi đã nghỉ hưu và căng thẳng về tất cả các khoản nợ chồng chất.”
“Là một người 68 tuổi đã bảy lần sống sót sau căn bệnh ung thư trong 28 năm và hiện đang điều trị lần thứ tám, nợ y tế đã ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời tôi. Tôi đã rút quỹ hưu trí của mình để thanh toán các hóa đơn y tế và do đó, tôi phải tiếp tục làm việc ít nhất là bán thời gian để bổ sung các khoản trợ cấp An sinh xã hội của mình.”
“Nợ y tế của tôi đã gây ra chứng trầm cảm, lo lắng và hoảng loạn. Tôi miễn cưỡng theo đuổi việc chăm sóc các vấn đề sức khỏe khác. Tôi mất nhà vì bị tịch thu tài sản và sợ hãi thao thức suốt đêm, không biết phải làm gì.”
“Tôi không đủ khả năng mua tất cả các loại thuốc mà bác sĩ đã kê cho tôi nên tôi đã ngừng mua ở hiệu thuốc. Tôi đã hủy các cuộc hẹn vì tôi không đủ khả năng trả khoản đồng thanh toán hoặc tiền xăng để đến đó. Điều này đã ảnh hưởng đến cả sức khỏe thể chất và tinh thần của tôi”.
“Tôi đã bị ung thư 3 lần trong vòng chưa đầy 4 năm. Đầu tiên là ung thư vú. Khi nhận được hóa đơn phẫu thuật, tôi lập tức dừng việc xạ trị sau phẫu thuật trước thời hạn dự kiến vì tôi còn nợ tiền phẫu thuật.”
“Tôi lại bị ung thư và đã chọn không điều trị nữa vì tôi phải lựa chọn giữa tiền thuê nhà và thức ăn thay vì chăm sóc y tế.”
🚩Tác động của khoản nợ y tế liên quan đến ung thư là không đồng đều và làm sâu sắc thêm sự chênh lệch
Trợ giúp thanh toán chi phí điều trị không nhất quán và khiến nhiều người không hài lòng — và vẫn mắc nợ
📌55% những người mắc nợ y tế liên quan đến ung thư đã được cơ quan thu nợ hoặc người đòi nợ liên hệ và 64% trong số đó cảm thấy bị quấy rối.
📌Chỉ 31% tin rằng họ được đối xử công bằng và 26% cho biết họ được đưa ra kế hoạch thanh toán hợp lý.
📌4% nói rằng người đòi nợ hoặc cơ quan thu nợ đã giúp họ trả hết nợ, trong khi 79% không đồng ý rằng quy trình thu nợ hữu ích trong việc trả hết nợ của họ.
Hình 9
📌Trong khi phần lớn bệnh nhân ung thư và những người sống sót được khảo sát (63%) biết rằng hầu hết các bệnh viện và nhiều cơ sở y tế khác đều có chương trình hỗ trợ tài chính, chỉ 1/4 (25%) thì không.
📌Hơn một phần ba số người được khảo sát (36%) đã được đề nghị hoặc đăng ký hỗ trợ tài chính và 68% trong số đó đã nhận được hỗ trợ thành công.
📌Trong số 468 người đã được đề nghị hoặc đăng ký hỗ trợ tài chính, 41% được BS điều trị đề nghị, 35% tự tìm hiểu về điều đó và 22% phát hiện ra điều đó thông qua một nguồn khác.
📌Điều quan trọng là, trong số 317 người không biết về các chương trình hỗ trợ cho điều trị, 30% cho biết họ sẽ thay đổi điều gì đó về phương pháp điều trị ung thư nếu biết.
📌Hơn một nửa (55%) số người có mắc nợ y tế liên quan đến ung thư đã có kế hoạch thanh toán, thẻ tín dụng y tế hoặc thanh toán trả góp cho khoản nợ y tế của họ.
📌Những thứ này cũng thường được cung cấp bởi BS (48%), trong khi 28% tự tìm thấy chúng và 9% tìm thấy chúng từ nguồn khác.
📌Chỉ khoảng một nửa (51%) số người sở hữu các loại sản phẩm nợ này cảm thấy họ hiểu rõ các điều khoản và 46% cho biết họ có thể thực hiện thanh toán.
📌Chưa đến một nửa (45%) cho biết họ sẽ sử dụng lại sản phẩm và 40% cho biết sản phẩm này mang lại khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc mà họ không thể có được.
📌31% cho biết gói thanh toán, thẻ tín dụng y tế hoặc trả góp được đưa ra ở mức hợp lý,
📌 trong khi 26% cho biết họ ngạc nhiên với tỷ lệ này hoặc nợ nhiều hơn họ nghĩ và 24% cho biết điều đó khiến khoản nợ của họ tăng lên.
📌 (56%) cho biết họ cảm thấy áp lực với sản phẩm cho vay.
🚩Cách tiếp cận chính sách nhiều mặt có thể giúp giảm nợ chi phí y tế liên quan đến ung thư và giúp đỡ các gia đình vốn đã chịu gánh nặng nợ y tế
Cuộc khảo sát đã thử nghiệm 5 cách tiềm năng để giúp giảm nợ y tế liên quan đến bệnh ung thư.
📌Đứng đầu danh sách về lợi ích lớn nhất được nhận thấy là đảm bảo bệnh nhân nhận được toàn bộ lợi ích của các chương trình hỗ trợ và giảm giá thuốc (62%), đảm bảo nhiều bệnh nhân hơn có quyền truy cập vào các chương trình hỗ trợ của nhà cung cấp (61%) và tăng khả năng tiếp cận với người điều hướng bệnh nhân (59%).
📌Việc đảm bảo rằng những bệnh nhân cần hỗ trợ tài chính trước khi họ bắt đầu chăm sóc cũng được 52% coi là một trong những cách hữu ích nhất để giảm nợ y tế liên quan đến ung thư, trong khi 45% cho rằng đảm bảo bệnh nhân không nhận được hóa đơn y tế bất ngờ sẽ trở nên hữu ích nhất.
Hình 10
📌Khi nói đến việc giúp đỡ các gia đình đang phải đối mặt với nợ y tế, 54% đồng ý rằng việc cấm các hành vi đòi nợ mang tính chất săn mồi và phân biệt đối xử sẽ giúp ích nhiều nhất, tiếp theo là 51% coi việc xóa nợ y tế là một yếu tố đánh giá mức độ tin cậy của một cá nhân như là những cách quan trọng nhất để giúp đỡ. Việc giới hạn lãi suất đối với nợ y tế (47%) và giảm thiểu việc bán nợ y tế cho người đòi nợ y tế (46%) cũng được coi là rất hữu ích.
Hình 11
🍀Phương pháp:
Sáng kiến nghiên cứu khảo sát “Quan điểm của NB ung thư” của ACS CAN được thiết kế để hỗ trợ các nỗ lực của tổ chức nhằm chấm dứt nỗi đau và tử vong do ung thư thông qua vận động chính sách công.
Dữ liệu được cung cấp bởi các bệnh nhân ung thư và những người sống chung ung thư trong khuôn khổ dự án này cho phép hiểu rõ hơn về trải nghiệm và ý kiến của họ về các vấn đề liên quan đến ung thư, đồng thời đưa ra tiếng nói cho bệnh nhân ung thư và những người sống sót trong việc định hình và vận động các chính sách công giúp ngăn ngừa, phát hiện và điều trị ung thư và thúc đẩy chất lượng cuộc sống tích cực hơn cho những người bị ảnh hưởng.
Để bảo vệ tất cả những người tham gia sáng kiến này, tất cả các đề cương nghiên cứu, bảng câu hỏi và thông tin liên lạc đều được Hội đồng Đánh giá Thể chế của Trường Y khoa Morehouse xem xét.
📌Đối tượng khảo sát bao gồm các cá nhân đáp ứng các tiêu chí sau:
Được chẩn đoán và/hoặc điều trị ung thư trong vòng 7 năm qua
Trên 18 tuổi (cha mẹ của những người sống sót sau ung thư được mời tham gia thay mặt cho con chưa thành niên của họ)
Cư trú tại Hoa Kỳ hoặc lãnh thổ Hoa Kỳ
Những người tham gia khảo sát được mời tham gia thông qua email, thư trực tiếp, phương tiện truyền thông xã hội và tiếp cận cộng đồng và đối tác có quan hệ với bệnh nhân ung thư và những người sống sót. Những người đồng ý tham gia sau khi xem xét thông tin chấp thuận có hiểu biết sẽ hoàn thành khảo sát trực tuyến, bao gồm thông tin về nhân khẩu học và lịch sử ung thư để cung cấp thông tin phân tích và các câu hỏi chuyên đề như được thảo luận trong tài liệu này.
Dữ liệu được thu thập từ ngày 18 tháng 3 đến ngày 14 tháng 4 năm 2024. Tổng cộng có 1.284 người tham gia nhóm thuần tập đã trả lời khảo sát. Sự khác biệt được báo cáo giữa các nhóm được kiểm tra về ý nghĩa thống kê ở khoảng tin cậy 95%.
Giới thiệu về ACS CAN
Mạng lưới Hành động Ung thư của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ (ACS CAN) ủng hộ các chính sách công dựa trên bằng chứng nhằm giảm bớt gánh nặng ung thư cho mọi người.
Chúng tôi thu hút các tình nguyện viên trên khắp đất nước để giúp các nhà hoạch định chính sách ở mọi cấp chính quyền lắng nghe tiếng nói của họ. Chúng tôi tin rằng mọi người nên có cơ hội công bằng và chính đáng để ngăn ngừa, phát hiện, điều trị và sống sót sau bệnh ung thư.
Kể từ năm 2001, với tư cách là chi nhánh vận động phi lợi nhuận, phi đảng phái của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, ACS CAN đã vận động thành công hàng tỷ đô la tài trợ cho nghiên cứu ung thư, mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng với giá cả phải chăng và các biện pháp kiểm soát thuốc lá tiên tiến đã được chứng minh.
Chúng tôi sát cánh cùng các tình nguyện viên của mình, nỗ lực đưa bệnh ung thư trở thành ưu tiên hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách ở các thành phố, tiểu bang và thủ đô của đất nước chúng ta.
Long Tran dịch.
Nếu bạn thích bài đăng này, vui lòng giúp chúng tôi và chia sẻ trên Zalo, LinkedIn, Twitter, Facebook, v.v.. Ngoài ra, có thể theo dõi trang www.thuvienykhoa.com.vn để đọc thêm các nội dung bổ ích khác.
Chân thành cảm ơn!
Ban Biên Tập.