Một cách tiếp cận mới để có được khả năng mở đường truyền tĩnh mạch lớn ở trẻ em
Tác giả Kiberd, M.B., Dumbarton, T.
Canadian Journal of Anesthesia/Journal canadien d’anesthésie
Volume 69, pages 1554–1555, (2022)
Việc tiếp cận mạch máu để kiểm soát tình trạng xuất huyết nặng ở trẻ em có thể là một thách thức. Thường khó có đủ đường vào mạch máu để chuẩn bị hoặc xử lý tình trạng xuất huyết ồ ạt và hồi sức sau đó. Ngay cả khi sử dụng hướng dẫn siêu âm theo thời gian thực, việc đặt PIVC đường kính lớn cần thiết để hồi sức cũng có thể gặp vấn đề.
Trong trường hợp có thể tiếp cận được tĩnh mạch nhỏ, kỹ thuật Seldinger có thể được sử dụng để tăng kích thước catheter đặt vào. Ở đây, các tác giả mô tả một kỹ thuật mới để dễ dàng có được đường truyền tĩnh mạch ngoại vi có kích thước lớn.
🚩Nếu đặt ống thông tĩnh mạch ngoại vi 24G (PIV), dây dẫn luồn đường kính 0,018 inch [0,45 cm] có thể được luồn qua PIVC đã đặt (Hình, Bảng A). Sau đó, PIV được rút ra qua dây luồn và dụng cụ nong cỡ 3,5 Fr dạng mở/xé vỏ đưa vào (với ống thông bóc vỏ được thay thế bằng PIVC 16G—Bảng B và C của Hình) có thể được đưa qua dây (Bảng D của Hình).
Không có kẽ hở giữa đường kính ngoài của dụng cụ nong và phần côn của 16G PIV, cho phép đưa ống xuyên qua da và vào tĩnh mạch một cách trơn tru. Theo cách này, PIV 24G có thể được nâng cấp lên PIVC 16G.
Kỹ thuật này chỉ khả thi trong trường hợp tĩnh mạch có thể chấp nhận PIV 16G. Ngay cả khi bệnh nhân bị giảm thể tích và tĩnh mạch thường bị xẹp, tĩnh mạch cẳng tay hoặc tĩnh mạch trước khuỷu lớn ở trẻ có thể sẽ chấp nhận PIVC 16G. Tuy nhiên, nếu tĩnh mạch không phù hợp cho PIVC 16G thì kỹ thuật này không phù hợp vì tĩnh mạch sẽ bị rách (ví dụ, tĩnh mạch ở mu bàn chân ở trẻ sơ sinh nặng 3 kg).
Vì vậy, việc lựa chọn bệnh nhân và tĩnh mạch là quan trọng, nhưng kỹ thuật này có thể là công cụ hồi sức ở trẻ em cũng như người lớn.
Mặc dù PIVC truyền dịch nhanh (RIC) lớn hơn được bán trên thị trường để tăng kích thước tương tự kiểu Seldinger, nhưng chúng tôi tin rằng kỹ thuật của chúng tôi có lợi vì các dòng RIC yêu cầu đặt PIV 18G trước khi tăng kích thước và PIV 18G trong những tình huống này có thể gặp khó khăn.
Tương tự, việc sử dụng bộ dụng cụ chọc thủng vi mô cũng đã được mô tả, nhưng lại sử dụng kim tiêm ban đầu lớn hơn.
Trích Kiberd, M. B., & Dumbarton, T. (2022). A novel approach to obtaining large-bore access in pediatrics. Canadian journal of anaesthesia = Journal canadien d’anesthesie, 69(12), 1554–1555. https://doi.org/10.1007/s12630-022-02332-y
Nếu bạn thích bài đăng này, vui lòng giúp chúng tôi và chia sẻ trên Zalo, LinkedIn, Twitter, Facebook, v.v.. Ngoài ra, có thể theo dõi trang www.thuvienykhoa.com.vn để đọc thêm các nội dung bổ ích khác.
Chân thành cảm ơn!
Ban Biên Tập