Ngày tận thế của thuốc kháng sinh: Liệu tình trạng kháng thuốc kháng sinh có đang đảo ngược nền y học hiện đại?
Sự gia tăng của vi khuẩn kháng thuốc kháng sinh đe dọa làm đảo lộn thế giới y học hiện đại chỉ trong vòng 10-20 năm. Hầu hết mọi người đã nghe những thuật ngữ như ‘kháng thuốc kháng sinh’ và ‘siêu vi khuẩn’ và đã được thuyết giảng về tầm quan trọng của việc hoàn thành một liệu trình kháng sinh. Tuy nhiên, hầu hết mọi người không nhận ra đầy đủ mức độ nghiêm trọng của mối đe dọa sức khỏe toàn cầu mà chúng ta đang phải đối mặt hiện nay. Nhiều người chưa bao giờ mơ về một thế giới không có một trong những loại thuốc cứu sống cơ bản nhất. Cuộc sống sẽ như thế nào sau ngày tận thế của thuốc kháng sinh?
Thuốc kháng sinh là gì?
Thật kỳ lạ khi nghĩ rằng khám phá y học quan trọng nhất trong lịch sử lại là một tai nạn. Năm 1928, nhà vi sinh vật học người Scotland Alexander Fleming đã vô tình để lại một đĩa nuôi cấy bị nhiễm khuẩn trong phòng thí nghiệm của mình trong suốt kỳ nghỉ kéo dài hai tuần và khi trở về, ông phát hiện ra rằng một loại nấm mốc đã phát triển ngăn cản sự phát triển của vi khuẩn trên đĩa. Kể từ đó, việc cô lập chất kháng khuẩn này đã diệt trừ hoặc kiểm soát được một số căn bệnh đe dọa tính mạng trước đây không thể chữa khỏi.
Vi khuẩn trở nên kháng thuốc kháng sinh như thế nào?
Trong khi thuốc kháng sinh đã chứng minh được hiệu quả cực kỳ cao trong nhiều năm, thì các vi sinh vật này rất thông minh và có cơ chế kháng thuốc cho phép chúng cuối cùng chế ngự được thuốc kháng sinh. Ngay từ năm 1960, các chủng kháng penicillin đã xuất hiện và số lượng các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn không thể điều trị bằng nhiều loại thuốc kháng sinh khác nhau chỉ tăng lên. Thuốc kháng sinh được kê đơn càng nhiều thì tốc độ kháng thuốc kháng sinh đối với thuốc càng nhanh.
Kháng thuốc kháng sinh đã được đẩy nhanh bởi nhiều yếu tố. Hai thủ phạm lớn nhất là việc con người sử dụng thuốc kháng sinh sai cách, chẳng hạn như kê đơn nhầm và không dùng hết liệu trình thuốc kháng sinh, và việc sử dụng rộng rãi thuốc kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi để thúc đẩy tăng trưởng và giảm nhiễm trùng, khiến tình trạng kháng thuốc kháng sinh lây sang người thông qua việc tiêu thụ thịt, cá và sữa.
Sẽ ra sao nếu không có thuốc kháng sinh?
Rất ít loại thuốc kháng sinh mới được phát hiện kể từ những năm 1970 và ngành công nghiệp dược phẩm chủ yếu chỉ giới hạn ở việc điều chỉnh các loại thuốc kháng sinh hiện tại để chống lại tình trạng kháng thuốc ngày càng gia tăng. Phương pháp này sẽ sớm không đủ để ngăn chặn vi khuẩn kháng thuốc. Ngoài ra, cũng không có đủ đầu tư vào chẩn đoán để phát hiện vi khuẩn kháng thuốc hoặc vào vắc-xin phát triển để ngăn ngừa hoặc kiểm soát các bệnh nhiễm trùng.
Các siêu vi khuẩn như Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA) và enterococci kháng vancomycin (VRE) đang trở nên phổ biến hơn trong những năm gần đây, khiến các bệnh viện ngày càng khó điều trị cho những bệnh nhân bị nhiễm bệnh. Người ta cho rằng các bệnh nhiễm trùng kháng thuốc kháng sinh mắc phải trong bệnh viện như thế này hiện đang giết chết khoảng 48.000 người mỗi năm và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) dự đoán rằng, đến năm 2050, số người tử vong do nhiễm trùng kháng thuốc kháng sinh sẽ nhiều hơn là ung thư.
Một thế giới không có thuốc kháng sinh có thể chứng kiến sự tái phát của các căn bệnh cũ như bệnh lao (TB), sốt thương hàn, bệnh phế cầu khuẩn và bệnh bạch hầu đã cướp đi hàng triệu sinh mạng trước khi penicillin được phát minh. Trên thực tế, một chủng lao kháng thuốc được gọi là XDR-TB hiện đang gia tăng ở Châu Âu và cực kỳ khó điều trị, chỉ có một phần ba số trường hợp được chữa khỏi thành công. Ngoài ra, các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn lây truyền qua đường tình dục như giang mai và lậu, hiện đang được điều trị bằng một liệu trình kháng sinh đơn giản, có thể trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với sức khỏe. Gần đây đã có một đợt bùng phát siêu lậu trên toàn cầu kháng cả hai loại thuốc kháng sinh được sử dụng để điều trị bệnh nhiễm trùng.
Các phương pháp điều trị bệnh mà ngành dược phẩm đã dành nhiều thập kỷ để cố gắng phát triển, chẳng hạn như ung thư, có thể trở nên kém hiệu quả hơn nhiều. Trước thời đại của thuốc kháng sinh, những vết cắt đơn giản nhất cũng có thể gây tử vong nếu bị nhiễm vi khuẩn, nghĩa là phẫu thuật rất nguy hiểm. Nếu không có thuốc kháng sinh hiệu quả, các phương pháp chính để điều trị ung thư – phẫu thuật – có thể không còn khả thi nữa. Các thủ thuật y tế quan trọng khác như cấy ghép nội tạng, hóa trị, xạ trị, thay khớp háng, phẫu thuật thẩm mỹ và mổ lấy thai sẽ trở nên nguy hiểm hơn.
Việc thiếu thuốc kháng sinh cũng có thể khiến việc sinh nở tự nhiên trở thành rủi ro thực sự đối với phụ nữ và trẻ sơ sinh một lần nữa. Cho đến những năm 1930, nguy cơ tử vong của bà mẹ và trẻ em trong khi sinh nở là rất cao cho đến khi thuốc kháng sinh khiến tỷ lệ tử vong giảm mạnh. Ngày nay, hơn 30.000 phụ nữ và 400.000 trẻ sơ sinh ở các nước đang phát triển tử vong mỗi năm do nhiễm trùng liên quan đến sinh nở, trong đó có 200.000 trẻ sơ sinh tử vong do nhiễm trùng kháng nhiều loại thuốc. Mặc dù tỷ lệ tử vong khi sinh thấp ở các nước thu nhập cao hiện nay, việc tiếp tục sử dụng quá nhiều thuốc kháng sinh sẽ dẫn đến tình trạng kháng thuốc, khiến các biến chứng khi sinh nở trở nên khó điều trị hơn bằng các loại thuốc hiện có.
Người ta đang làm gì để chống lại tình trạng kháng thuốc kháng sinh?
Mặc dù cuộc khủng hoảng kháng thuốc kháng sinh rất đáng sợ, nhưng vẫn còn hy vọng. Vấn đề chính là phải có những người phù hợp cùng nhau giải quyết vấn đề. Chuyên gia về tình trạng kháng thuốc kháng sinh Rustam Aminov đã viết trong báo cáo năm 2010 của mình về chủ đề này rằng “đây là một vấn đề phức tạp đòi hỏi sự nỗ lực chung của các nhà vi sinh vật học, nhà sinh thái học, chuyên gia chăm sóc sức khỏe, nhà giáo dục, nhà hoạch định chính sách, cơ quan lập pháp, công nhân ngành nông nghiệp và dược phẩm, và công chúng để giải quyết. Trên thực tế, đây phải là mối quan tâm của tất cả mọi người, bởi vì, cuối cùng, luôn có khả năng bất kỳ ai trong chúng ta ở một giai đoạn nào đó sẽ bị nhiễm một loại mầm bệnh kháng thuốc kháng sinh”. Chìa khóa để ngăn ngừa ngày tận thế do thuốc kháng sinh là cùng nhau hợp tác, bao gồm cả việc công chúng lắng nghe lời khuyên về cách sử dụng thuốc kháng sinh đúng cách, thực hành vệ sinh tốt hơn và cập nhật vắc-xin.
Chính phủ nên hợp tác với ngành nông nghiệp để giảm hoặc cấm sử dụng thuốc kháng sinh trên vật nuôi khỏe mạnh. Vào năm 2013, FDA đã có bước tiến quan trọng khi triển khai kế hoạch loại bỏ dần việc sử dụng một số loại kháng sinh ở động vật. McDonald’s đã trở thành tiêu đề vào năm 2017 khi họ tuyên bố sẽ giảm lượng kháng sinh cực kỳ quan trọng ở gà và đang xây dựng kế hoạch giảm lượng kháng sinh sử dụng ở các loại thịt và sản phẩm từ sữa khác. Việc tránh các sản phẩm từ động vật bằng cách lựa chọn lối sống thuần chay sẽ phải được thực hiện hàng loạt để thực sự hiệu quả.
Tình trạng kháng kháng sinh là mối đe dọa đáng sợ nhưng rất thực tế mà thế giới đang phải đối mặt. Với số lượng siêu vi khuẩn kháng thuốc ngày càng tăng nhưng lại thiếu trầm trọng các phương án điều trị mới, sức khỏe tương lai chung của chúng ta đang bị đe dọa. Tuy nhiên, chúng ta hy vọng rằng bằng cách khuyến khích nỗ lực thống nhất toàn cầu trên nhiều ngành công nghiệp (bao gồm cả công chúng), tương lai đáng sợ được mô tả trong bài viết này có thể được ngăn chặn.
Tác giả Monique Ellis
Trích https://www.proclinical.com/blogs/2018-8/antibiotic-apocalypse-antibiotic-resistance-modern-medicine