📊So sánh ảnh hưởng của bơm thông tráng đường truyền tĩnh mạch với kỹ thuật ngắt quãng 📌[Pulsatite Flushing – PF] và kỹ thuật liên tục 📌[Continous Flushing – CF] về thời gian và sự thông suốt trên catheter tĩnh mạch ngoại vi: Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.
🪻Giới thiệu: Các kỹ thuật thông tráng của catheter tĩnh mạch ngoại vi (PIC) thông thường truyền NS 0.9% trong 24 giờ (giữ tĩnh mạch mở, KVO) hoặc bơm tráng ngắt quãng. Quá trình bơm tráng liên tục (CF) tạo ra dòng chảy tầng với vận tốc lớn hơn ở phần giữa so với bề mặt trong lòng bên của PIC và tĩnh mạch. Tuy nhiên, một dòng chảy hỗn loạn được tạo ra trong quá trình (PF) do tốc độ thay đổi ở phía bên và trung tâm của ống dẫn.Một nghiên cứu in vitro cho thấy hiệu quả lớn hơn của PF trong việc giảm sự xâm nhập của vi khuẩn trong ống thông tĩnh mạch trung tâm (CVS) so với kỹ thuật CF. Kỹ thuật CF đã được thực hiện trong một số nghiên cứu trên BN và kết quả cho thấy rằng không thay đổi về thể tích cũng như tần số có thể ảnh hưởng đáng kể đến thời gian giữ thông PIC.Chưa có quy trình chuẩn hoặc bằng chứng lâm sàng đầy đủ liên quan đến việc bơm tráng và không có sự đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu về hướng dẫn sử dụng để duy trì sự thông mở của catheters.Để đánh giá khả năng hoạt động của PIC, nhà nghiên cứu đã đưa ống tiêm (2 mL) vào cổng PIC (sau khi tháo nút khóa luer) và pít tông ống tiêm được kéo bằng tay; đảo ngược có máu trong nòng ống tiêm được coi là sự thông mở của PIC.
Kiến thức điều dưỡng luôn tìm cách cải thiện chất lượng chăm sóc BN và kỹ thuật bơm tráng catheter có thể làm giảm tần suất đặt PIC và giúp BN bớt đau và lo lắng hơn.
Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích so sánh tác động của PF và CF về thời gian và tình trạng thông mở của PIC ở các BN.
🍀Phương pháp: Trong thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi này, 71 BN được phân ngẫu nhiên vào hai nhóm PF (n=35) và CF (n=36).
Quy trình PF được thực hiện bằng cách bơm ngắt quãng liên tiếp 1 mL NaCl 0.9%/giây với độ trễ ngừng ngắt quãng dưới 1 giây cho đến khi hoàn thành 5 mL dung dịch.Kỹ thuật bơm CF được thực hiện với 5 mL NaCl 0.9% trong 5 giây mà không có bất kỳ sự trễ ngừng nào trước và sau mỗi lần dùng thuốc.Dữ liệu liên quan đến thời gian và tình trạng thông suốt PIC được thu thập bằng cách sử dụng bảng kiểm đánh giá mỗi sau 12 giờ (h) cho đến 96 giờ. Việc phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm thống kê R.
🌼Kết quả: cho thấy số lượng PIC còn thông không khác biệt đáng kể giữa các nhóm PF & CF trong 96 giờ.Số lượng PIC cao nhất bị loại khỏi nghiên cứu có liên quan đến thời gian 96 giờ do tình trạng thông thoáng một phần ở hai nhóm.
🍁Bàn luận:
Keogh và cộng sự đã kiểm tra tác động của bốn chế độ CF khác nhau (3 mL và 10 mL NS được thực hiện mỗi 6, 24 giờ trước và sau mỗi lần tiêm thuốc) và báo cáo rằng không có chế độ nào vượt trội.Tắc nghẽn xảy ra ở 14% số PIC, nhiều hơn nhóm CF trong nghiên cứu của chúng tôi (11,11%). Sự khác biệt dường như là do kích thước khác nhau của PIC được sử dụng trong hai nghiên cứu.Mặc dù chúng tôi chỉ sử dụng PIC cỡ 20 nhưng Keogh và cộng sự đã sử dụng PIC cỡ 20, 22.Theo một nghiên cứu khác của Wallis và Cs., PIC lớn hơn và nhỏ hơn số 20 có thể làm giảm thời gian duy trì PIC của.Hơn nữa, nghiên cứu được đề cập không xác định thời gian bơm NS trong quy trình CF.
Kết quả nghiên cứu in vitro của Ferroni và Cs. cho thấy kỹ thuật PF ít nhất có hiệu quả gấp đôi so với CF trong việc giảm tỷ lệ vi khuẩn xâm nhập vào PIC. Kỹ thuật CF bao gồm bơm 10 mL NS bằng một động tác tay vào ống thông. Hơn nữa, PF được thực hiện bằng cách tiêm 1 mL NS trong 1/10 giây với thời gian tạm dừng 0,9 giây cho đến khi tiêm xong 10 mL. Thời gian bơm tráng kéo dài 10 giây và ít hơn thời gian trong nghiên cứu của chúng tôi. Việc tăng thời gian bơm dẫn đến giảm tốc độ dòng chảy, sau đó làm giảm tốc độ làm sạch(Parreira và Cs.).
Guiffant và Cs., đã thực hiện một nghiên cứu in vitro, trong đó 10 mL NS được tiêm vào 6 thời điểm khác nhau (2,5-5- 10-20-40-60 giây) bolus bằng kỹ thuật CF.Số lượng PIC được làm sạch cao nhất liên quan đến thời gian 2,5 giây. Ngoài ra, hiệu quả của kỹ thuật PF đã được xem xét sau khi tiêm 1 mL NS trong vòng 0,5 giây và tạm dừng ở 6 lần (0,1-0,2-0,4-0,5-0,6 và 0,8 giây) cho đến khi tổng thể tích 10 mL.Quá trình thanh lọc tối đa xảy ra ở mức tạm dừng 0,4 giây.Vì chúng tôi không thể điều chỉnh thời gian chính xác là 0,4 giây bằng cách di chuyển kim nên thời gian tạm dừng được coi là nhỏ hơn 1 giây.
Chúng tôi loại trừ những bệnh nhân được truyền dịch quá 12 giờ.Guiffant, nhận thấy rằng truyền 500 mL NS trong thời gian 24 giờ dẫn đến việc làm sạch ống thông và tác động tích cực đến độ bền của mạch máu.Tuy nhiên, nó có thể hạn chế hoạt động của BN và thậm chí có thể gây nguy hiểm ở một số BN như suy tim sung huyết (CHF),suy thận mãn tính (CRF) do dư dịch.
Chúng tôi đã sử dụng NS trong nghiên cứu hiện tại để duy trì tính ổn định của PIC.Tác dụng NS đã được so sánh với nước muối có heparin trong hầu hết các biện pháp can thiệp được thực hiện để mở ống thông mà không có sự khác biệt đáng kể.Do nguy cơ gây giảm tiểu cầu, quá mẫn và hạn chế sử dụng ở bệnh nhân mắc bệnh đông máu nên heparin ít được khuyến khích sử dụng.
Ngoài ra, trong nghiên cứu của Klein và cộng sự, việc sử dụng nước muối có heparin và NS không mang lại sự khác biệt nào về độ thông của PIC.
Dựa trên kết quả của Heidari Gorji và Cs., 2 dung dịch (3 mL NS có heparin và 10 mL NS) cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về khả năng hoạt động thông của CVC trong 21 ngày. Kỹ thuật khóa (tiêm dung dịch đã xác định qua nút khóa luer sau khi dùng thuốc cuối cùng) đã được sử dụng trong nghiên cứu này, kỹ thuật này có hiệu quả đối với sự thông thoáng của ống thông.
Trong nghiên cứu hiện tại, chúng tôi đã bơm 5 mL NS trước và sau khi dùng thuốc,có thể hoạt động như một dung dịch khóa.
Xu và Cs., cho rằng không có sự khác biệt về độ thông suốt của PIC giữa 2 nhóm khi tiêm NS (3 mL) và NS có heparin hóa (3 mL với 150 đơn vị heparin) sau khi tiêm thuốc.Tắc nghẽn xảy ra ở 18,16% với 3 mL NS, trong khi trong nghiên cứu hiện tại, 11,11% PIC đã bị hư trong tổng cộng 96 giờ ở nhóm CF.
📝Kết luận: Có nhiều phương pháp khác nhau để giữ thông PIC như truyền NS liên tục trong 24 giờ,khóa đường truyền bằng NS hoặc Heparined saline, cũng như PF và CF.Kỹ thuật bơm tráng được thực hiện trước và sau mỗi lần tiêm thuốc vào PIC.Thời gian và thể tích dung dịch của chúng rất quan trọng trong việc loại bỏ mảng bám trong PIC và ống tĩnh mạch. Kết quả nghiên cứu hiện tại cho thấy không có sự khác biệt giữa kỹ thuật CF và PF tại thời điểm hoạt động của PIC.Vì vậy, cả hai kỹ thuật đều có thể được sử dụng cho mục đích này.
Tham khảo
Hosseini, S. J., Eidy, F., Kianmehr, M., Firouzian, A. A., Hajiabadi, F., Marhamati, M., & Firooz, M. (2021). Comparing the Effects of Pulsatile and Continuous Flushing on Time and Type of Peripheral Intravenous Catheters Patency: A Randomized Clinical Trial. Journal of caring sciences, 10(2), 84–88. https://doi.org/10.34172/jcs.2021.016
Ferroni A, Gaudin F, Guiffant G, Flaud P, Durussel JJ, Descamps P. et al. Pulsative flushing as a strategy to prevent bacterial colonization of vascular access devices. Med Devices (Auckl) 2014;7:379–83. doi: 10.2147/MDER.S71217.
Guiffant G, Durussel JJ, Merckx J, Flaud P, Vigier JP, Mousset P. Flushing of intravascular access devices (IVADs) – efficacy of pulsed and continuous infusions. J Vasc Access. 2012;13(1):75–8. doi: 10.5301/JVA.2011.8487
Heidari Gorji MA, Rezaei F, Jafari H, Yazdani Cherati J. Comparison of the effects of heparin and 0.9% sodium chloride solutions in maintenance of patency of central venous catheters. Anesth Pain Med. 2015;5(2):e22595. doi: 10.5812/aapm.2259
Keogh S, Flynn J, Marsh N, Mihala G, Davies K, Rickard C. Varied flushing frequency and volume to prevent peripheral intravenous catheter failure: a pilot, factorial randomised controlled trial in adult medical-surgical hospital patients. Trials. 2016;17(1):348. doi: 10.1186/s13063-016-1470-6
Parreira P, Sousa LB, Marques IA, Santos-Costa P, Braga LM, Cruz A. et al. Double-chamber syringe versus classic syringes for peripheral intravenous drug administration and catheter flushing: a study protocol for a randomised controlled trial. Trials. 2020;21(1):78. doi: 10.1186/s13063-019-3887-1
Xu L, Hu Y, Huang X, Fu J, Zhang J. Heparinized saline versus normal saline for maintaining peripheral venous catheter patency in China: an open-label, randomized controlled study. J Int Med Res. 2017;45(2):471–80. doi: 10.1177/0300060516685203
Wallis MC, McGrail M, Webster J, Marsh N, Gowardman J, Playford EG. et al. Risk factors for peripheral intravenous catheter failure: a multivariate analysis of data from a randomized controlled trial. Infect Control Hosp Epidemiol. 2014;35(1):63–8. doi: 10.1086/674398