📊Đau khi đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên: Kích thước của kim không liên quan
NC của Fredericus Hj van Loon và cộng sự [2018]
🪻Giới thiệu:Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn vị trí đặt PIVC là tình trạng của tĩnh mạch,các loại thuốc cần dùng,thời gian điều trị dự định và kích thước của PIVC so với kích thước của tĩnh mạch.Đặt PIVC thường gây đau và làm tăng sự lo lắng,sự khó chịu của BN.Điều này ảnh hưởng đến khả năng nhận thức và gây ra sự khó chịu về tinh thần,thể chất.Đau được dự đoán trước và khi đặt làm tăng đáng kể mức độ lo lắng của BN.Sự khó chịu từ đặt PIVC là vấn đề lâm sàng quan trọng hàng 5 trong thực hành gây mê.Việc đặt PIVC đường kính nhỏ hơn được cho là ít đau hơn so với PIVC có kích thước lớn hơn; không đạt được sự đồng thuận về
tuyên bố này.Vì vậy, chúng tôi đưa ra giả thuyết rằng việc đặt PIVC có kích thước nhỏ hơn có mức độ cảm giác đau thấp hơn so với PIVC cỡ lớn hơn khi không dùng thêm thuốc giảm đau.Ngoài giả thuyết, chúng tôi đề xuất xác định các yếu tố có ảnh hưởng tác dụng giảm đau khi truyền tĩnh mạch ngoại biên.
🍀Thực hiện: Các tĩnh mạch ở mặt lưng và mặt trong của tay được xem xét để đặt PIVC,
bao gồm TM mu TM nền, TM cổ tay, TM cẳng tay,TM trung gian.Đặt PIVC được xác định là thành công nếu BS,ĐD có thể đặt và flush NS 0.9% mà không có dấu hiệu thoát mạch.
🌼Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang, quan sát này được thực hiện từ tháng 5-10/2016, trong đó các BN phẫu thuật, từ 18 tuổi trở lên, đủ điều kiện tham gia.Các BS và ĐD gây mê có kinh nghiệm thường xuyên được truyền tĩnh mạch ngoại vi theo tiêu chuẩn chăm sóc.
Đo lường kết quả chính là cảm giác đau khi đặt PIVC với kích cỡ biết trước. Mức độ đau được tính theo thang đánh giá số bằng lời nói (VNRS),(VAS), với “0” đại diện cho không đau và số “10” tượng trưng cho đau tồi tệ nhất có thể tưởng tượng được.
Mặc dù thang đo có giá trị và đáng tin cậy để đo mức độ đau,VNRS chỉ đánh giá một thành phần của trải nghiệm đau và mức độ đau.
Dữ liệu được thu thập khi đặt PIVC, bằng cách hỏi BN hoặc từ BS, ĐD và được ghi trong HSBA, cả bác sĩ và BN đều không biết được đánh giá để ảnh hưởng kết quả
đo mức độ đau khi truyền tĩnh mạch.Điểm đau được thu thập và ghi lại trực tiếp sau khi thực hiện PIVC.
📝Kết quả: Tổng cộng có 1063 BN được ghi nhận,chia thành 4 nhóm: nhóm 1, đặt kim 22G (N=29);nhóm 2, 20G (N=447); nhóm 3, kim 18G (N=531); nhóm 4, cỡ kim trên 18G(N=56).PIVC 18G cho điểm đau thấp nhất (3,2 ± 2,0).Theo kết quả phân tích tuyến tính đa biến,5 yếu tố có liên quan đáng kể đến đau khi đặt PIVC(giới tính, ASA của Hiệp hội Gây mê Hoa Kỳ,điểm A-DIVA, vị trí đặt, và số lần đặt có thành công hay không).
Tuy nhiên, kích thước của PIVC không có mối liên quan đáng kể đến điểm đau của NB.
📌Kết luận: Đặt PIVC cỡ nhỏ không dẫn đến cảm giác đau thấp hơn.Tuy nhiên, điểm đau thấp nhất đã được ghi nhận ở những BN được đặt PIVC
thành công ở lần đầu tiên trên mu bàn tay ở bệnh nhân nam có ASA 1 và nguy cơ thấp thang điểm A-DIVA. Để giảm đau khi đặt
PIVC, phải tránh thất bại khi đặt, đặc biệt là ở BN có A-DIVA cao.
Tuy nhiên, việc chọn những vị trí ít đau hơn sẽ giúp lấy được sự tin tưởng và hợp tác của BN.
Kích thước phù hợp của PIVC cũng như vị trí nên được lựa chọn cẩn thận dựa trên chỉ định,đường kính của tĩnh mạch và nguy cơ biến chứng sau khi đặt.
Tham khảo
van Loon, F. H., Puijn, L. A., van Aarle, W. H., Dierick-van Daele, A. T., & Bouwman, A. R. (2018). Pain upon inserting a peripheral intravenous catheter: Size does not matter. The journal of vascular access, 19(3), 258–265. https://doi.org/10.1177/1129729817747531