⚠️ 3️⃣2️⃣.2️⃣% sinh viên y khoa cho biết gặp ít nhất một tai nạn do kim đâm khi thực tập
📊NC khảo sát tai nạn do kim đâm ở sinh viên y khoa tại một trường y: tại sao vẫn còn là một vấn đề?
Tác giả Franca Keicher và cộng sự [2024]
🪻Tóm tắt:
Tai nạn do kim đâm (Needle Stick Injury NSI) đề cập đến “bất kỳ vết thủng, vết cắt hoặc vết xước nào tổn thương da do kim tiêm, dao mổ, v.v. gây ra bị nhiễm bẩn với dịch tiết của BN, bất kể vết thương có chảy máu hay không – kể cả tiếp xúc trực tiếp với da hoặc niêm mạc miệng, mũi và mắt”.
NSI được biết là xảy ra thường xuyên trong môi trường lâm sàng, gây ra rủi ro về an toàn cho nhân viên y tế và có khả năng xảy ra nhiễm trùng nghiêm trọng.
Sinh viên y khoa đặc biệt là trong thời gian thực tập lâm sàng, thường xuyên tham gia vào các thủ thuật xâm lấn. Một số nghiên cứu đã báo cáo sự khác nhau tỷ lệ phổ biến của NSI trong số sinh viên y khoa, dao động từ 21,4% đến 59%. Vấn đề có thể là do các yếu tố như như thiếu nhận thức về rủi ro, nhận thức sai lầm về mức độ nghiêm trọng của NSI và thiếu kiến thức về báo cáo sự cố
🍀Mục đích của NC là để xác định số lượng và nguyên nhân của NSI cũng như tần suất sinh viên y khoa mắc phải. báo cáo NSI trong ở năm thực tập cuối cấp.
🌼Phương pháp:
Một bảng câu hỏi trực tuyến đã được phát triển và cung cấp vào tháng 1 & 2/2023 cho tất cả sinh viên y khoa (n=423) trong 1,5 năm cuối tại Đại học Würzburg, Đức.
📝Kết quả:
Tỷ lệ phản hồi là 19,6% (n=84).
🚩32,1% số người được hỏi cho biết đã bị NSI trong thời gian thực tập lâm sàng, với tổng số 32 NSI
Đa số bao gồm đâm thủng, vết cắt hoặc vết xước (93,8%), trong khi chỉ có một số ít bị thương do tiếp xúc với da hoặc niêm mạc.
📌Trung bình, sinh viên trải qua 1,38 NSI.
📌Trong số người trả lời, hơn một phần tư báo cáo ít nhất một NSI.
Sinh viên báo cáo NSI chủ yếu tại bệnh viện đại học (51,5%) và tại các bệnh viện giảng dạy liên kết với đại học (12,5%).
📌Trong 90,6% trường hợp, s
inh viên đeo găng tay vào thời điểm bị thương.
📌Tần suất xảy ra
đặc biệt thường xuyên trong phẫu thuật, sản phụ khoa và nội khoa.
⚠️Hỗ trợ các ca mổ,
khâu vết thương và lấy máu xét nghiệm được coi là hoạt động có nguy cơ cao.
⚠️Thiếu tập trung, lơ là và áp lực thời gian đóng một vai trò quan trọng trong các sự cố.
📌Nhiều hơn 50% sinh viên được hỏi mô tả đã thực hiện hơn 10 thủ thuật xâm lấn/ngày vào thời điểm bị NSI. Các lý do khác gây ra NSI đã được xác định từ 7 câu trả lời mở được cung cấp bao gồm các vấn đề như sự mất tập trung khi giám sát sinh viên và sự coi thường của họ đối với sự an toàn của sinh viên thực tập.
Tai nạn cũng xảy ra do vận chuyển kim tiêm không có phương tiện xử lý thích hợp, thiếu khay đựng dụng cụ và thùng đựng vật sắc nhọn để vứt bỏ kim hoặc vật sắc nhọn đã qua sử dụng, dùng tay đậy nắp kim.
Ngoài ra, sự phối hợp và lỗi giao tiếp trong quá trình điều trị y tế đã được ghi nhận.
Phần lớn sinh viên [18.8%] đã báo cáo NSI
📌Trong 1/5 trường hợp, BN chưa được xét nghiệm nguy cơ.
Điều quan trọng nhất lý do không báo cáo NSI là vì sợ hậu quả và chỉ coi vết thương là nhỏ;
📌một phần ba nói rằng người giám sát của họ xem báo cáo sự cố là không cần thiết hoặc bệnh nhân đã được có KQXN nguy cơ báo cáo là không cần thiết.
📌Một số sinh viên giải thích rằng thời gian cần để báo cáo một sự việc quá lâu, hoặc họ cảm thấy xấu hổ hoặc không thoải mái, khiến họ không thể báo cáo.
Khi được hỏi về quá trình hành động thích hợp sau NSI, đa số sinh viên y khoa đều làm đúng lựa chọn sự cần thiết phải liên hệ với viên chức y tế cơ quan (90,5%).
📌Về nguy cơ lây nhiễm liên quan với NSI, sinh viên thường nói rằng họ có đủ thông tin (M=3,9, SD=1,2). Ít sinh viên cảm thấy được đào tạo đủ về cách xử lý các dụng cụ xâm lấn, thủ thuật (M=3,6, SD=1,2).
📌Về mặt kiến thức, 24,4% sinh viên đánh giá nguy cơ lây truyền HBV cao hơn HCV.
📌Hơn một phần năm số người được hỏi (28,9%) bày tỏ mong muốn có thêm các sự kiện tập trung vào nguy cơ NSI và xử lý các dụng cụ một cách thích hợp.
Trong số những đề xuất tùy chọn (cho phép nhiều phản hồi), tại chỗ hướng dẫn của người giám sát thường được lựa chọn (87,5%) cũng như các khóa học trong phòng kỹ năng để đào tạo thực hành kỹ năng (50%) và video đào tạo về quy trình báo cáo cho NSI trên nền tảng học tập của trường đại học (33,3%).
📌Những sinh viên đã từng thực hành trên thiết bị mô phỏng hoặc BN trước đây có nhiều khả năng bị NSI đáng kể hơn.
Sinh viên được tập huấn vể NSI từ các chuyên gia sức khỏe nghề nghiệp trước đây cho thấy có tương quan với ít NSI hơn.
🍁Kết luận:
Các tác giả giả định rằng những sinh viên được đào tạo có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc xử lý các thủ thuật xâm lấn, dẫn đến
đến việc áp dụng nhiều hơn các hoạt động tương ứng và do đó làm tăng nguy cơ thương tích về số lượng tuyệt đối.
Điều này không phản đối nhu cầu can thiệp mang tính mô phạm trước khi đào tạo tại nơi làm việc để nâng cao nhận thức về NSI
rủi ro.
Đồng thời, các khái niệm phải được phát triển và triển khai để hỗ trợ việc báo cáo và giảm bớt nỗi sợ hãi về hậu quả.
Tham khảo
Keicher F, Zirkel J, Leutritz T, König S. Combatting the occurrence of needle-stick injuries in a medical school: why is it still an issue? BMC Med Educ. 2024 Mar 20;24(1):312. doi: 10.1186/s12909-024-05309-1. PMID: 38509544; PMCID: PMC10953246.