Công nghệ hiển thị hình ảnh tĩnh mạch để tiếp cận tĩnh mạch ngoại biên ở bệnh nhân nhi: Công cụ ra quyết định lâm sàng
Elizabeth Weathers et al. Nurs Open. 2024 Oct.
Thông thường, PIVC được đặt bởi ĐD (Alexandrou và cộng sự 2018), nhiều người trong số họ là sinh viên mới tốt nghiệp với kinh nghiệm hạn chế (Keleekai và cộng sự 2016). Một số biến chứng và thất bại sớm có thể là do lỗi của người vận hành (Massey và cộng sự 2020; Hawes 2007), vì nhiều ĐD thiếu tin tưởng vào việc đặt PIVC (Lyons và Kasker 2012). Bằng chứng cho thấy có sự khác biệt về đào tạo PIVC trong các chương trình điều dưỡng trên khắp Hoa Kỳ (Keleekai và cộng sự 2016; Lyons và Kasker 2012; Massey và cộng sự 2020; Vizcarra và cộng sự 2014; Brown, Crookes và Iverson 2015). Có tới 60% ĐD cho biết họ không được đào tạo cách đặt PIVC khi còn học tại trường điều dưỡng (Lyons và Kasker 2012; Vizcarra và cộng sự 2014), tạo ra sự thiếu hụt kiến thức trong thực hành lâm sàng (Etafa et al. 2020; Simonetti et al. 2019).
Tỷ lệ thành công trong lần thử đầu tiên có thể dao động từ 44% đến 76,9% đối với ĐD cấp dưới, so với 91%–98% ở ĐD có kinh nghiệm (Keleekai và cộng sự 2016).
Nhiều lần thử đặt có thể dẫn đến vô số biến chứng bao gồm điều trị chậm trễ, bệnh nhân đau và không hài lòng, suy tĩnh mạch, tổn thương dây thần kinh và chấn thương liên quan đến mạch máu (van Loon và cộng sự 2016; Parker và cộng sự 2017; Helm và cộng sự 2015).
Nỗ lực đặt PIVC ngày càng tăng cũng có liên quan đến việc tăng nguy cơ chấn thương do kim tiêm và khả năng lây truyền mầm bệnh qua đường máu (Reddy et al. 2017; Zhang, Lee và Knott 2014; Pinelli và Pittiruti 2021). Những nỗ lực PIVC lặp đi lặp lại dẫn đến việc sử dụng nhân lực và nguồn thiết bị không hiệu quả (Goff et al. 2013). Bằng chứng cho thấy rằng những bệnh nhân yêu cầu lớn hơn hoặc bằng ba lần thử tiêu tốn 43% tổng chi phí PIVC (Hallam và cộng sự 2016) và việc loại bỏ hoặc thất bại sớm của PIVC được ước tính tiêu tốn từ 9,8 đến 17,5 tỷ USD mỗi năm (Glover và cộng sự 2017).
Một trong những nhóm đối tượng thách thức nhất đối với việc đặt PIVC là bác sĩ nhi khoa do độ sâu của các tĩnh mạch ngoại vi của họ (Park et al. 2016). Tỷ lệ thành công trong lần thử đầu tiên ở trẻ em có thể dao động từ 60% đến 81% (Park et al. 2016). Một số công nghệ hiện có sẵn để hỗ trợ và cải thiện vị trí đặt PIVC, bao gồm công nghệ hiển thị tĩnh mạch bằng máy phát ánh sáng, siêu âm và cận hồng ngoại (NIR). Việc sử dụng công nghệ hình ảnh hóa tĩnh mạch đã được khuyến nghị bởi Hiệp hội Y tá Cấp cứu (ENA), Hiệp hội Tiếp cận Mạch máu (AVA), cũng như Hiệp hội Y tá Truyền dịch (INS) (Parker et al. 2017; Nickel et al. 2024; Pitts và Ostroff 2020). Công nghệ hiển thị tĩnh mạch nâng cao kỹ năng của người dùng bằng cách cho phép họ đánh giá kỹ lưỡng giải phẫu và mạch máu của bệnh nhân, đồng thời xác định hiệu quả hơn vị trí tối ưu để đặt PIVC ngoài những gì có thể nhìn thấy bằng mắt thường hoặc có thể đạt được bằng các phương pháp truyền thống (mốc giải phẫu). Tối ưu hóa việc lựa chọn vị trí bằng cách xác định các khu vực cách xa các điểm uốn cong (ví dụ: hố trước khuỷu tay) và phía trên cổ tay, cũng như cách xa van hoặc chỗ chia đôi, không chỉ giúp bệnh nhân thoải mái hơn mà còn giúp cải thiện độ bền của ống thông, giảm nhu cầu thay thế PIVC và tăng sự hài lòng của bệnh nhân (Çağlar et al. 2019; Eren và Caliskan 2021). NIR cho phép hiển thị chính xác các mạch máu dưới da sâu tới 10 mm. NIR có thể khác biệt với các công nghệ khác vì nó cho phép hiển thị nhiều mạch cùng một lúc thay vì hiển thị từng tĩnh mạch như với các thiết bị khác (ví dụ: máy phát quang, siêu âm).
Accu Vein – Vein Translluninator
Vein Finder – NIR
Mục đích: Mục đích của nghiên cứu này là phát triển một công cụ ra quyết định lâm sàng để hướng dẫn sử dụng các công nghệ hình ảnh tĩnh mạch và nâng cao cơ hội đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên (PIVC) thành công, sử dụng dữ liệu được thu thập từ nhóm tiếp cận mạch máu tại một trung tâm y tế nhi khoa lớn ở Hoa Kỳ.
Thiết kế: Thiết kế phân tích cụm, hai pha định lượng.
Bảng thu thập dữ liệu triển vọng được tạo ra dựa trên việc xem xét tài liệu và kiến thức chuyên môn lâm sàng về VAT. Việc thu thập dữ liệu triển vọng bao gồm: (1) thành công trong lần thử đầu tiên (có/không): mô tả khả năng của nhân viên VAT trong việc đặt ống thông tĩnh mạch ngoại vi trong lần thử đầu tiên; (2) điểm số Độ khó của việc tiếp cận IV (DIVA) ước tính (bao gồm tĩnh mạch có thể nhìn thấy và sờ thấy được sau khi thắt dây garô, tuổi và tiền sử khó tiếp cận); (3) số lần thử PIV không thành công trước khi VAT đến (bao nhiêu và bởi ai); (4) số lần thử PIVC tổng thể của nhân viên VAT; (5) dữ liệu bổ sung cho tối đa năm lần thử PIV (thành công hoặc nếu mức độ chăm sóc tăng lên); (6) các đặc điểm của đường tĩnh mạch ngoại vi (PIV) để mô tả các phương pháp đặt ống thông PIV hiện có: kích thước ống thông, hướng (phải/trái), vị trí tiếp cận, loại ống thông; và (7) loại thiết bị hỗ trợ hoặc kỹ thuật truyền thống được sử dụng cho mỗi lần thử PIVC (NIR, máy chiếu sáng, siêu âm hoặc các mốc giải phẫu). Dữ liệu hồi cứu sau xuất viện về 100 lần thử PIVC bao gồm: (1) đặc điểm của bệnh nhân: tuổi, giới tính BMI và chủng tộc/màu da; (2), loại chẩn đoán nhập viện chính; (3) đơn vị nơi bệnh nhân nhập viện; (4) Thông tin loại bỏ PIVC liên quan đến thời gian lưu lại (khoảng thời gian PIVC vẫn tồn tại) và lý do loại bỏ; và (5) danh sách các loại thuốc tiêm tĩnh mạch được sử dụng.
Phương pháp: Nghiên cứu bao gồm hai giai đoạn sau:
(1) xem xét biểu đồ hồi cứu định lượng để đánh giá việc sử dụng và ưu tiên của bác sĩ lâm sàng đối với các công nghệ hình ảnh tĩnh mạch
và (2) thiết kế triển vọng định lượng, bao gồm đánh giá biểu đồ hồi cứu sau xuất viện, để xác nhận việc sử dụng các công nghệ hình ảnh tĩnh mạch và các yếu tố ảnh hưởng đến việc ra quyết định của bác sĩ lâm sàng.
Kết quả:
Tổng cộng có 16 nhóm được tạo ra dựa trên phân tích cụm và ý kiến đóng góp của chuyên gia lâm sàng.
Kết quả phân tích thành công trong lần thử đầu tiên đã xác định các đề xuất thiết bị tối ưu cho từng nhóm trong số 16 nhóm bệnh nhân.
🍀Đối với bệnh nhân trên 2 tuổi, thiết bị ánh sáng hồng ngoại NIR có nhiều khả năng mang lại thành công trong lần thử đầu tiên bất kể BMI hay vị trí đặt PIVC và thiết bị NIR là tối ưu nhất cho hầu hết tất cả các loại bệnh nhân nhi.
🍀Transilluminator [hiển thị hình ảnh xuyên qua da] được cho là thiết bị tối ưu nhất để sử dụng cho những bệnh nhân nhỏ tuổi (<2 tuổi) bị thiếu cân.
Kết luận:
Công nghệ hiển thị tĩnh mạch được các tổ chức điều dưỡng chuyên nghiệp khuyến nghị để cải thiện khả năng tiếp cận PIV.
Tuy nhiên, việc áp dụng công nghệ hữu ích này để hỗ trợ lựa chọn tĩnh mạch tối ưu để chèn và hiển thị trong quá trình chèn còn hạn chế.
Đây là nghiên cứu đầu tiên phát triển công cụ ra quyết định lâm sàng cho công nghệ hiển thị tĩnh mạch khi đặt PIVC.
Ý nghĩa đối với nghề nghiệp và chăm sóc bệnh nhân:
Công nghệ hình ảnh tĩnh mạch cho phép đánh giá nhanh chóng, kỹ lưỡng hệ thống mạch máu của bệnh nhân để xác định vị trí tối ưu để đặt PIVC ngoài những gì có thể nhìn thấy bằng mắt thường hoặc có thể đạt được bằng các phương pháp truyền thống.
Công cụ này được thiết kế để hướng dẫn các chuyên gia chăm sóc sức khỏe thực hiện thành công việc đặt PIVC trong lần thử đầu tiên, từ đó cải thiện kết quả và hiệu quả chăm sóc của bệnh nhân.
Nguồn Weathers, E., Cazzell, M., Thompson, J. A., Grieser, K., & Caraveo, L. (2024). Vein Visualisation Technology for Peripheral Intravenous Access in Paediatric Patients: A Clinical Decision-Making Tool. Nursing open, 11(10), e70054. https://doi.org/10.1002/nop2.70054