• Trang chủ
  • Thư viện sách
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Tài liệu & Báo cáo
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên Khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Đào tạo
  • Thành tựu Y khoa
  • Tin tức
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Thư viện sách
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Tài liệu & Báo cáo
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên Khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Đào tạo
  • Thành tựu Y khoa
  • Tin tức
  • Liên hệ
Trang chủ/Thư viện/Tài liệu & Báo cáo/Điều dưỡng/Quản lý đường truyền xâm lấn mạch máu [Vascular Access Devices]/Gánh nặng của catheter tĩnh mạch ngoại vi ở bệnh nhân lớn tuổi nội trú

Gánh nặng của catheter tĩnh mạch ngoại vi ở bệnh nhân lớn tuổi nội trú

51 xem 1 30/05/2024 longtran

Gánh nặng của catheter tĩnh mạch ngoại vi ở bệnh nhân lớn tuổi nội trú ở bệnh viện: Một phần nghiên cứu cắt ngang quốc gia của dự án ONE MILLION GLOBAL PERIPHERAL INTRAVENOUS CATHETERS COLLABORATION

Tác giả Danielle Ní Chróinín et al. Australas J Ageing. 2023 Mar.

Gần 8 triệu PIVC được đặt vào các bệnh nhân nhập viện ở Úc mỗi năm. Mặc dù cần thiết nhưng những thiết bị này không phải là không có rủi ro, với tới 70% trong số đó được tháo ra sớm.

Gần một nửa số lần đặt PIVC đầu tiên đều thất bại, gây đau và lo lắng quá mức ở bệnh nhân do nhiều lần thử thất bại và gần 1/4 số lần đặt không thực sự cần thiết và khiến bệnh nhân có nguy cơ bị nhiễm trùng một cách không cần thiết.

Có hơn 3000 trường hợp nhiễm trùng đường máu liên quan đến PIVC mỗi năm ở Úc, với tỷ lệ 1 trên 10 bệnh nhân tử vong và nhiều trường hợp khác mắc bệnh.

Gần một nửa số ca nhập viện trong ngày ở Úc là những người từ 65 tuổi trở lên, trong đó gần như tất cả (90%) cần một số hình thức chăm sóc cấp tính cần có thiết bị tiếp cận mạch máu (y tế, phẫu thuật và chăm sóc cấp tính khác). Số lượng người lớn tuổi cần nhập viện cấp tính được ước tính sẽ tăng đáng kể trong hai thập kỷ tới.

Gánh nặng sử dụng thiết bị tiếp cận mạch máu ở nhóm dân số ngày càng tăng này có thể sẽ trở thành một vấn đề nghiêm trọng cần được giải quyết trong thời gian ngắn, để đảm bảo triển khai các chính sách và hướng dẫn phù hợp nhằm giảm tỷ lệ biến chứng cao. Trong bối cảnh này, các tác giả đã điều tra gánh nặng của PVC ở những bệnh nhân nội trú lớn tuổi tại bệnh viện ở Úc.

Mục tiêu

Để nghiên cứu gánh nặng của catheter tĩnh mạch ngoại vi (PIVC) ở bệnh nhân lớn tuổi nhập viện.

Phương pháp

Một nghiên cứu quan sát tiến cứu cắt ngang (2014/2015) để mô tả các đặc điểm, chỉ định và kết quả của PIVC ở những bệnh nhân ≥65 tuổi từ 65 bệnh viện ở Úc.

Kết quả

📌Trong số 2179 PIVC riêng lẻ (ở 2041 bệnh nhân, tuổi trung bình 77,6 tuổi, 45% là nữ, 58% ở NSW),

📌Trong số 2179 PIVC được sử dụng, 43% (n = 932) được đặt bởi bác sĩ, 24% (n = 517) bởi ĐD và 29% (n = 624) không có thông tin ghi chép.

📌Hầu hết được đặt ở khoa nội trú (40%, n = 866) hoặc khoa cấp cứu (25%, n = 548).

📌Vị trí PIVC phổ biến nhất là cổ tay và bàn tay (42%, n = 901), tiếp theo là hố trước khuỷu tay (29%, n = 624).

Chỉ 27% (n = 586) PIVC được đặt ở vị trí được khuyến nghị của cẳng tay. Phần lớn PVC (74%, n = 1605) có cỡ 20–22 và gần như tất cả (97%, n = 2104) đều được băng cố định trong suốt thích hợp (Bảng 1).

📌Chỉ định chính để đặt PIVC là dùng thuốc qua đường tĩnh mạch (58%, n = 1252) trong đó 12% là dùng kháng sinh qua đường tĩnh mạch (n = 270); tiếp theo là dịch truyền tĩnh mạch (22%, n = 478) và 16% (n = 356) là vì các lý do ‘khác’ (ví dụ: lấy máu).

Tuy nhiên, chỉ 74% (n = 1617) được sử dụng trong 24 giờ trước đó.

📌nghĩa là 25% là ‘không hoạt động’.

Bảng 1

Liên quan đến các biến chứng và gánh nặng liên quan đến PIVC, 18,0% (393/2179) thiết bị được quan sát thấy có dấu hiệu biến chứng (Bảng 2) với 154 (7,1%) có dấu hiệu viêm tĩnh mạch (chẳng hạn như đỏ cục bộ, đau, sưng, (xem Bảng 3).

Tổng cộng, 82,0% không có triệu chứng.

📌18% (393/2179) có dấu hiệu biến chứng liên quan đến PIVC.

Các biến chứng liên quan đến PIVC thường gặp nhất:

đau (4,1%) và đỏ cục bộ tại vị trí đặt (1,8%).

📌Gần 1/3 (29,1%) băng bị bẩn, lỏng hoặc bong ra

📌 36,8% có ghi ngày giờ trên băng.

Cả truyền thuốc tĩnh mạch (aOR 1,74, 95% CI 1,28-2,38, p < 0,001) và đặt PIVC vào tĩnh mạch không ở chi trên (aOR 3,40 so với cẳng tay [vị trí tham chiếu], CI 95% 1,62-7,17, p < 0,001) có liên quan độc lập với sai sót PIVC.

📌Viêm tĩnh mạch được biểu hiện ở 7% (154) bệnh nhân.

📌Chỉ truyền thuốc qua đường tĩnh mạch làm tăng khả năng xuất hiện triệu chứng viêm tĩnh mạch (aOR 1,61, 95% CI 1,01-2,57, p = 0,05).

📌Tuổi càng cao có liên quan nghịch với các triệu chứng của viêm tĩnh mạch.

📌Thời gian trung bình mà PIVC đã được duy trì là 1,7 ngày (IQR 0,83–2,04 ngày, trong khoảng 0,1 – 32,88 ngày).

📌Trong số 1575 bệnh nhân (79%) đã đánh giá trải nghiệm PIVC của họ bằng thang đo Likert 0-10 (trong đó 10 = ‘tốt nhất có thể’), điểm trung bình là 8 (IQR 6-10).

Độ tuổi ở tứ phân vị cao nhất (>84 tuổi) có liên quan độc lập với khả năng đạt điểm cao thấp hơn (aOR 0,71, KTC 95% 0,54-0,94, p = 0,02).

Bàn luận

Trong phân tích thứ cấp về dữ liệu Úc từ nghiên cứu OMG quốc tế, cắt ngang, tiến cứu, nhóm NC đã xác định rằng

📌gần 1 trong 5 bệnh nhân lớn tuổi ở bệnh viện Úc mắc PIVC có các triệu chứng và/hoặc dấu hiệu liên quan đến PIVC của họ.

📌Gần một phần ba số lần đặt PIVC không được ghi chép lại và cứ 4 PIVC được đánh giá thì có một chiếc không hoạt động vào ngày đánh giá.

Những phát hiện này chỉ ra rằng có nhiều cơ hội để cải thiện việc sử dụng PIVC ở nhóm bệnh nhân nội trú lớn tuổi ở Úc. Điều đáng yên tâm là tỷ lệ biến chứng tổng thể không cao, ít nhất là trong mẫu này, tuy nhiên, việc thận trọng và theo dõi thường xuyên PIVC có thể hữu ích nếu truyền thuốc, do có mối liên quan mà chúng tôi đã ghi nhận giữa việc truyền thuốc và thất bại của PIVC. Phát hiện của NC cũng chỉ ra rằng nếu có thể, không nên đặt PIVC ở các vị trí không thông thường trong đoàn hệ này, do có mối liên quan với nguy cơ thất bại duy trì ống thông ngày càng tăng.

Các tác giả đã đưa vào một thước đo trải nghiệm bệnh nhân đơn giản và ngắn gọn, và trong khi một số ít người không hài lòng thì những người trả lời lớn tuổi nhất lại ít đánh giá rất cao trải nghiệm PIVC của họ.

Chỉ 3/4 số bệnh nhân đóng góp vào đánh giá này và những người không thể tham gia (do bệnh tật hoặc suy giảm nhận thức) thậm chí còn dễ bị tổn thương hơn. Hơn nữa, các tác giả lưu ý rằng thang đo Likert chỉ cho phép hình dung nhanh một cách hạn chế về trải nghiệm của bệnh nhân và cần có nghiên cứu sâu hơn để khám phá trải nghiệm của bệnh nhân về việc đặt ống thông và quản lý PIVC (và đã được lên kế hoạch).

Trong nghiên cứu ADVANCED của Pháp về thiết bị nội mạch ở người lớn trong phòng chăm sóc đặc biệt, tỷ lệ biến chứng là 60,9 trên 1000 ngày đặt ống thông, tỷ lệ phổ biến nhất trong số này là rối loạn chức năng và điều này thường thấy ở PIVC hơn là đường động mạch hoặc đường trung tâm.

Nhìn chung tỷ lệ thất bại lên tới 50% đã được mô tả trong tài liệu. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch quan sát được của nhóm NC thấp hơn tỷ lệ được mô tả trong một nghiên cứu ở Serbia trên người lớn (mọi lứa tuổi), trong đó viêm tĩnh mạch được ghi nhận ở 44% số ca PIVC trong số 368 bệnh nhân.

Các tác giả lưu ý rằng việc tiếp cận chlorhexidine, băng màng trong suốt và hệ thống PIVC tích hợp có thể bị hạn chế hơn ở các nước đang phát triển như Serbia, điều này có thể giải thích phần nào tỷ lệ viêm tĩnh mạch cao hơn ở nhóm đó. Họ lưu ý rằng tỷ lệ viêm tĩnh mạch trong nghiên cứu tương đối thấp nhưng cao hơn mục tiêu <5% do INS đặt ra.

Viêm tĩnh mạch có liên quan nghịch với tuổi ngày càng tăng ở nhóm người lớn tuổi mà nhóm nghiên cứu. Trong y văn, cả hai giới hạn tuổi già và trẻ đều có liên quan đến việc tăng nguy cơ hỏng ống thông.

Một nghiên cứu gần đây của nhóm AVATAR ở Queensland, bao gồm dữ liệu từ gần 12.000 bệnh nhân (mọi lứa tuổi), đã ghi nhận mối liên hệ nghịch đảo nhẹ giữa tuổi tăng và nguy cơ viêm tĩnh mạch (HR 0,99, KTC 95% 0,98–0,99), với mức ‘giảm rủi ro’ tương tự trong thất bại PIVC tổng thể, mặc dù ý nghĩa lâm sàng của mức giảm nhỏ như vậy vẫn chưa rõ ràng.

Kết luận

Mỗi 5 PIVC thì có 1 được xác định là có biến chứng, nghiên cứu sâu hơn nên tập trung vào việc tối ưu hóa việc sử dụng PIVC ở bệnh nhân lớn tuổi.

Tác động thực hành

Trong nghiên cứu cắt ngang quy mô lớn trên toàn quốc với hơn 2000 PIVC, các tác giả đã xác định rằng gần 1 trong 5 có các triệu chứng/dấu hiệu lâm sàng liên quan đến PIVC, kèm theo các suy yếu bổ sung bao gồm làm bẩn hoặc bong băng, không ghi ngày tháng hoặc ống thông không hoạt động.

Các phương pháp thực hành PIVC cần được tối ưu hóa để giảm bớt gánh nặng liên quan đến PIVC có thể tránh được và cần phải ban hành các chính sách hỗ trợ phương pháp thực hành tốt nhất.

Tác động chính sách

Nghiên cứu này, kết hợp với các dữ liệu sẵn có khác, chỉ ra rằng có nhiều cơ hội để cải thiện việc quản lý PIVC, kể cả ở những bệnh nhân lớn tuổi. Các hướng dẫn như Tiêu chuẩn chăm sóc lâm sàng quản lý ống thông tĩnh mạch ngoại vi được đưa ra gần đây có thể cho phép các dịch vụ y tế đánh giá thực hành và hỗ trợ các sáng kiến ​​cải thiện chất lượng.

Trích Ní Chróinín, D., Ray-Barruel, G., Carr, P. J., Frost, S. A., Rickard, C. M., Mifflin, N., McManus, C., & Alexandrou, E. (2023).

Long Trần dịch.

Nếu bạn thích bài đăng này, vui lòng giúp chúng tôi và chia sẻ trên Zalo, LinkedIn, Twitter, Facebook, v.v.. Ngoài ra, có thể theo dõi trang www.thuvienykhoa.com.vn để đọc thêm các nội dung bổ ích khác.

Chân thành cảm ơn!

Ban Biên Tập

Was this helpful?

1 Có  Không
Bài liên quan
  • PIVC ở trẻ sơ sinh
  • Tác động của công nghệ soi tĩnh mạch và đặt đường tĩnh mạch truyền thống đối với tình trạng đau và hành vi ở trẻ sinh non
  • Keo dán mô dùng để dán đường truyền tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh: Một sáng kiến ​​đầy hứa hẹn?
  • Thách thức của việc đặt lại catheter tĩnh mạch ngoại vi ở trẻ sơ sinh
  • AVATAR – Chăm sóc catheter tĩnh mạch ngoại vi tại các khoa cấp cứu của Úc: Chúng ta có đạt tiêu chuẩn không?
  • Công nghệ hiển thị hình ảnh tĩnh mạch để tiếp cận tĩnh mạch ngoại biên ở bệnh nhân nhi

Didn't find your answer? Liên hệ

Leave A Comment Hủy

Quản lý đường truyền xâm lấn mạch máu [Vascular Access Devices]
  • Gánh nặng của catheter tĩnh mạch ngoại vi ở bệnh nhân lớn tuổi nội trú
  • QI Vai trò Nhóm chuyên trách chăm sóc quản lý đường truyền xâm lấn mạch máu
  • Tỷ lệ mắc, các yếu tố nguy cơ và kết quả của nhiễm khuẩn máu liên quan đến đường truyền tĩnh mạch trung tâm ở bệnh nhân chấn thương
  • Các biến chứng không nhiễm trùng của catheters tĩnh mạch ngoại vi ở người lớn
  • Năng lực và sự tự tin của việc đặt ống thông tĩnh mạch ngoại vi ở điều dưỡng khoa nội ngoại.
  • Tất cả bệnh nhân đều cần đặt PIVC, có đúng hay không
  • Thất bại khi đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi lần đầu trước mổ ở người lớn: Phát triển thang dự đoán VENSCORE
  • Tỷ lệ mắc và các yếu tố nguy cơ gây thất bại trong quản lý chăm sóc thiết bị tĩnh mạch trung tâm [CVAD] ở người lớn nhập viện nội trú
  • Cải tiến lâm sàng: Tăng tỷ lệ thành công của đặt đường truyền tĩnh mạch lớn và nhỏ
  • Một cách tiếp cận mới để có được khả năng mở đường truyền tĩnh mạch lớn ở trẻ em
  • Tối ưu hóa hiệu quả của catheter tĩnh mạch ngoại vi ngắn
  • Đặt PIVC dưới hướng dẫn bằng siêu âm cho NB có đánh giá tĩnh mạch khó [DIVA] là một kỹ năng có giá trị đối với các Điều dưỡng
  • Cố định PIVC kết hợp cho bệnh nhân nhi giúp giảm tỷ lệ thất bại, tiết kiệm chi phí
  • Thực hành và hiệu suất của catheter tĩnh mạch ngoại vi ở trẻ em trong NC toàn cầu: Phân tích thứ cấp về 4206 PIVC ở trẻ em
  • Khảo sát kiến thức của điều dưỡng về kỹ thuật vô khuẩn không chạm
  • Giảm tỷ lệ nhiễm trùng huyết liên quan đến đường truyền trung tâm tại các đơn vị chăm sóc đặc biệt ở 30 quốc gia có thu nhập thấp và trung bình
  • Đánh giá kết quả của một gói gồm 11 thành phần và phương pháp tiếp cận đa chiều của INICC trong việc giảm tỷ lệ nhiễm trùng huyết liên quan đến đường truyền trung tâm tại 9 nước Châu Á
  • Nghiên cứu trường hợp nhiều lần cố gắng đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở trẻ sơ sinh
  • Tối ưu hóa các mẫu dòng truyền dịch để giảm thiểu chấn thương thành tĩnh mạch
  • Hiệu quả về mặt chi phí của chương trình đào tạo tiếp cận mạch máu tại khoa cấp cứu
  • Ảnh hưởng của tỷ lệ đường kính catheter so với đường kính tĩnh mạch đến thành công của việc đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi, một phân tích hậu kiểm
  • Mô hình AI [trí tuệ nhân tạo] để xác minh đầu ống thông tĩnh mạch trung tâm
  • Tác hại của việc nuôi cấy máu đường truyền trung tâm không phù hợp trong thực hành lâm sàng
  • Điều dưỡng cần hiểu các chỉ định đặt ống thông tĩnh mạch ngoại vi
  • Lựa chọn tĩnh mạch trong đặt PIVC
  • Tác động của việc thiếu hụt đầu nối không kim và bơm tiêm nước muối đóng gói sẵn lên tỷ lệ CLABSI trong tại 1 đơn vị PICU
  • Tần suất thay đổi bộ truyền dịch cho ống thông tĩnh mạch trung tâm tại các Đơn vị chăm sóc đặc biệt của Úc và New Zealand là bao nhiêu?
  • Hiệu quả của can thiệp đa phương thức bao gồm thông báo nhắc tự động về ngày đặt ống thông để giảm nhiễm trùng máu liên quan đến đường truyền trung tâm
  • Hoạt tính dược động học và kháng khuẩn của một loại băng hydrogel có chlorhexidine
  • Viêm tĩnh mạch nặng và hoại tử da sau khi dùng kali clorua nồng độ cao ở ngoại vi: Báo cáo ca bệnh
  • Amiodarone-induced phlebitis
  • So sánh ảnh hưởng của bơm thông tráng đường truyền tĩnh mạch với kỹ thuật ngắt quãng 📌[Pulsatite Flushing – PF] và kỹ thuật liên tục 📌[Continous Flushing – CF]
  • Tác dụng giảm đau của 03 phương pháp không dùng thuốc khác nhau trong đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở người lớn
  • Đau khi đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên: Kích thước của kim không liên quan
  • Đau khi đặt kim có liên quan đến kích thước kim khác nhau
  • Sát trùng da trẻ sơ sinh bằng dung dịch chlorhexidine chứa cồn 2%
  • Băng dán kháng khuẩn dán vị trí catheter tĩnh mạch trung tâm giúp giảm nhiễm trùng liên quan đến catheter ở trẻ sơ sinh
  • Hiểu về viêm tĩnh mạch
  • Quản lý chăm sóc đường truyền tĩnh mạch trung tâm ở trẻ em
  • Đặt tĩnh mạch ngoại vi dưới hướng dẫn siêu âm [USG-PIVC
  • Sát khuẩn các đầu nối không kim của thiết bị tiêm truyền tĩnh mạch trung tâm
  • The LANCET – Can thiệp đa phương thức để phòng ngừa thất bại khi đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở người lớn (PREBACP)
  • Điểm số đường truyền tĩnh mạch khó [DIVA] ở trẻ em
  • Kỹ thuật và công nghệ để cải thiện kết quả đặt ống thông tĩnh mạch ngoại vi ở bệnh nhi: Đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp
  • Thực hành ở Brazil của các Điều dưỡng về việc lắp các thiết bị tiếp cận mạch máu ngoại vi
  • Năng lực và sự tự tin của việc đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở điều dưỡng
  • UK Vessel Health and Preservation (VHP) Framework 2020
  • Công nghệ hiển thị hình ảnh tĩnh mạch để tiếp cận tĩnh mạch ngoại biên ở bệnh nhân nhi
  • AVATAR – Chăm sóc catheter tĩnh mạch ngoại vi tại các khoa cấp cứu của Úc: Chúng ta có đạt tiêu chuẩn không?
  • Thách thức của việc đặt lại catheter tĩnh mạch ngoại vi ở trẻ sơ sinh
  • Keo dán mô dùng để dán đường truyền tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh: Một sáng kiến ​​đầy hứa hẹn?
  • Tác động của công nghệ soi tĩnh mạch và đặt đường tĩnh mạch truyền thống đối với tình trạng đau và hành vi ở trẻ sinh non
  • PIVC ở trẻ sơ sinh
Danh mục
  • An toàn trong chăm sóc
  • An toàn trong sử dụng thuốc
  • Chăm sóc hồi sức tích cực & cấp cứu [Critical Care]
  • Chăm sóc nội khoa
  • Chuyên Khoa
  • Chuyên khoa
  • Điều dưỡng
  • Điều dưỡng
  • Kiểm soát nhiễm khuẩn
  • Kinh tế Y tế
  • Kinh tế Y tế
  • QLCL & ATNB
  • QLCL & ATNB
  • Quản lý Chăm sóc vết thương
  • Quản lý chi phí y tế điều dưỡng
  • Quản lý đường truyền xâm lấn mạch máu [Vascular Access Devices]
  • Quản lý nhân lực điều dưỡng
  • Quản Lý Y tế
  • Quản Lý Y tế
  • Tài liệu & Báo cáo

  Tất cả bệnh nhân đều cần đặt PIVC, có đúng hay không

Thất bại khi đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi lần đầu trước mổ ở người lớn: Phát triển thang dự đoán VENSCORE  

  • Privacy Policy
  • Terms of Use
  • Copyright 2025 Thuvienykhoa.com.vn. All Rights Reserved.