• Trang chủ
  • Thư viện sách
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Tài liệu & Báo cáo
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên Khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Đào tạo
  • Thành tựu Y khoa
  • Tin tức
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Thư viện sách
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Tài liệu & Báo cáo
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên Khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Đào tạo
  • Thành tựu Y khoa
  • Tin tức
  • Liên hệ
Trang chủ/Thư viện/Tài liệu & Báo cáo/Điều dưỡng/Chăm sóc hồi sức tích cực & cấp cứu [Critical Care]/NEJM-Bơm tiêm tự động Epinephrine có hiệu quả như thế nào trong điều kiện thực tế?  

NEJM-Bơm tiêm tự động Epinephrine có hiệu quả như thế nào trong điều kiện thực tế?  

19 xem 1 27/01/2025 vll

Bơm tiêm tự động Epinephrine có hiệu quả như thế nào trong điều kiện thực tế?

Bác sĩ David J. Amrol, đánh giá Lacwik P và cộng sự. J Allergy Clin Immunol Pract Tháng 12 năm 2024

Bệnh nhân có nguy cơ bị phản vệ được hướng dẫn phải luôn mang theo ống tiêm tự động Epinephrine. Tuy nhiên, tờ hướng dẫn sử dụng ghi rõ “Bảo quản ở nhiệt độ từ 20° đến 25°C (68° đến 77°F); cho phép thay đổi nhiệt độ từ 15°C–30°C (59°F–86°F).” Các nhà nghiên cứu đã thực hiện một nghiên cứu thực tế tại một phòng khám dị ứng ở Ba Lan để xác định sự phân hủy của epinephrine trong điều kiện hàng ngày.

90 bơm tiêm tự động Epinephrine có ngày hết hạn là 15 tháng đã được phân phối cho bệnh nhân, những người được yêu cầu tránh để ống tiêm tự động trong ô tô đóng kín hoặc các thùng chứa ngoài trời khác và không được để chúng trong tủ lạnh. Bệnh nhân được hướng dẫn mang theo ống tiêm tự động trong người trong 12 tháng và sau đó trả lại để đo epinephrine. Mặc dù nhiệt độ tối thiểu và tối đa được ghi lại là −16°C (3°F) và 32°C (90°F), nồng độ thấp nhất được đo là 91,6% so với 0,3 mg ban đầu; nồng độ trung bình là 94,5% so với ban đầu.

BÌNH LUẬN

Nghiên cứu này đảm bảo với chúng tôi rằng bệnh nhân có thể mang theo ống tiêm tự động của mình vào mọi thời điểm trong năm mà không sợ bị hỏng đáng kể, miễn là chúng không bị đông lạnh hoặc tiếp xúc với những khu vực hạn chế rất nóng. Các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng, ngay cả khi đã quá 30 tháng kể từ ngày hết hạn ghi trên nhãn, ống tiêm tự động vẫn chứa ít nhất 90% hàm lượng thuốc ban đầu (mặc dù FDA Hoa Kỳ đã phản bác rằng quá trình oxy hóa có thể làm giảm hiệu quả của epinephrine có thể đo được). Điểm chính đối với bệnh nhân là luôn có sẵn ống tiêm tự động và sẵn sàng sử dụng chúng ngay khi có phản ứng dị ứng. Tôi khuyến khích bệnh nhân giữ ống tiêm tự động của mình còn hạn sử dụng, nhưng nếu chỉ có ống tiêm đã hết hạn thì vẫn có thể sử dụng được.

Lacwik P et al. Real-life degradation of epinephrine in adrenaline autoinjectors: A single-center, 12-month prospective observation. J Allergy Clin Immunol Pract 2024 Dec; 12:3423. (https://doi.org/10.1016/j.jaip.2024.08.026)

Was this helpful?

1 Có  Không
Bài liên quan
  • NEJM – Dung dịch cân bằng có tốt hơn nước muối sinh lý thông thường cho bệnh viêm tụy cấp không?
  • Phát triển neffy, thuốc xịt mũi Epinephrine, dùng để điều trị các phản ứng dị ứng nghiêm trọng
  • Tổn thương do thoát dịch kali clorua
  • Quy trình tắm CHG—Những điểm chính
  • Decision Rules for Termination of Resuscitation—A Roadmap for Challenging Terrain
  • NEJM – Ngừng tim trong bệnh viện: Kết thúc hồi sức

Didn't find your answer? Liên hệ

Leave A Comment Hủy

Chăm sóc hồi sức tích cực & cấp cứu [Critical Care]
  • NEJM-Bơm tiêm tự động Epinephrine có hiệu quả như thế nào trong điều kiện thực tế?  
  • Tác động của thiết bị thực tế ảo và thiết bị rung làm lạnh tần số cao BUZZY đến thành công của lần đặt PIVC đầu tiên
  • Acetaminophen để phòng ngừa và điều trị rối loạn chức năng cơ quan ở những bệnh nhân nguy kịch bị nhiễm trùng huyết
  • JAMA Thông khí không xâm lấn để dự trữ oxy trong đặt nội khí quản cấp cứu
  • Sử dụng bản đồ tư duy kết hợp SBAR trong trao đổi thông tin tại khoa cấp cứu để giảm các thiếu sót thông tin bàn giao và các sự cố y khoa
  • Hệ thống điểm cảnh báo sớm có thể không bắt kịp phán đoán của điều dưỡng về các nguy cơ của bệnh nhân
  • Tỷ lệ mắc và đặc điểm của lỗi chẩn đoán trong chăm sóc đặc biệt nhi khoa
  • Độ chính xác phân loại cấp cứu của Điều dưỡng
  • NEJM – Dẫn lưu trọng lực so với hút áp lực tường trong quá trình chọc màng phổi: Phương pháp nào an toàn hơn phương pháp nào?
  • Cập nhật về việc quản lý phản vệ
  • NEJM – Đạp xe gắng sức cải thiện phục hồi chức năng cho người bệnh ICU
  • NEJM – Không có lợi ích khi khởi động norepinephrine sớm để điều trị sốc nhiễm trùng
  • Hiểu về nồng độ vancomycin
  • NEJM – Một thử nghiệm ngẫu nhiên về đường dùng thuốc cấp cứu trong ngừng tim ngoài bệnh viện
  • BMJ – Thời gian hồi sức tim phổi và kết quả cho người lớn bị ngừng tim trong bệnh viện
  • NEJM – Ngừng tim trong bệnh viện: Kết thúc hồi sức
  • Decision Rules for Termination of Resuscitation—A Roadmap for Challenging Terrain
  • Quy trình tắm CHG—Những điểm chính
  • Tổn thương do thoát dịch kali clorua
  • Phát triển neffy, thuốc xịt mũi Epinephrine, dùng để điều trị các phản ứng dị ứng nghiêm trọng
  • NEJM – Dung dịch cân bằng có tốt hơn nước muối sinh lý thông thường cho bệnh viêm tụy cấp không?
Danh mục
  • An toàn trong chăm sóc
  • An toàn trong sử dụng thuốc
  • Chăm sóc hồi sức tích cực & cấp cứu [Critical Care]
  • Chăm sóc nội khoa
  • Chuyên Khoa
  • Chuyên khoa
  • Điều dưỡng
  • Điều dưỡng
  • Kiểm soát nhiễm khuẩn
  • Kinh tế Y tế
  • Kinh tế Y tế
  • QLCL & ATNB
  • QLCL & ATNB
  • Quản lý Chăm sóc vết thương
  • Quản lý chi phí y tế điều dưỡng
  • Quản lý đường truyền xâm lấn mạch máu [Vascular Access Devices]
  • Quản lý nhân lực điều dưỡng
  • Quản Lý Y tế
  • Quản Lý Y tế
  • Tài liệu & Báo cáo

  NEJM – Dẫn lưu trọng lực so với hút áp lực tường trong quá trình chọc màng phổi: Phương pháp nào an toàn hơn phương pháp nào?

Cập nhật về việc quản lý phản vệ  

  • Privacy Policy
  • Terms of Use
  • Copyright 2025 Thuvienykhoa.com.vn. All Rights Reserved.