• Trang chủ
  • Thư viện sách
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Tài liệu & Báo cáo
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên Khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Đào tạo
  • Thành tựu Y khoa
  • Tin tức
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Thư viện sách
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Tài liệu & Báo cáo
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên Khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Đào tạo
  • Thành tựu Y khoa
  • Tin tức
  • Liên hệ
Trang chủ/Thư viện/Tài liệu & Báo cáo/Điều dưỡng/Quản lý đường truyền xâm lấn mạch máu [Vascular Access Devices]/So sánh ảnh hưởng của bơm thông tráng đường truyền tĩnh mạch với kỹ thuật ngắt quãng 📌[Pulsatite Flushing – PF] và kỹ thuật liên tục 📌[Continous Flushing – CF]

So sánh ảnh hưởng của bơm thông tráng đường truyền tĩnh mạch với kỹ thuật ngắt quãng 📌[Pulsatite Flushing – PF] và kỹ thuật liên tục 📌[Continous Flushing – CF]

16 xem 0 31/01/2025 longtran

📊So sánh ảnh hưởng của bơm thông tráng đường truyền tĩnh mạch với kỹ thuật ngắt quãng 📌[Pulsatite Flushing – PF] và kỹ thuật liên tục 📌[Continous Flushing – CF] về thời gian và sự thông suốt trên catheter tĩnh mạch ngoại vi: Một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên.

🪻Giới thiệu: Các kỹ thuật thông tráng của catheter tĩnh mạch ngoại vi (PIC) thông thường truyền NS 0.9% trong 24 giờ (giữ tĩnh mạch mở, KVO) hoặc bơm tráng ngắt quãng. Quá trình bơm tráng liên tục (CF) tạo ra dòng chảy tầng với vận tốc lớn hơn ở phần giữa so với bề mặt trong lòng bên của PIC và tĩnh mạch. Tuy nhiên, một dòng chảy hỗn loạn được tạo ra trong quá trình (PF) do tốc độ thay đổi ở phía bên và trung tâm của ống dẫn.Một nghiên cứu in vitro cho thấy hiệu quả lớn hơn của PF trong việc giảm sự xâm nhập của vi khuẩn trong ống thông tĩnh mạch trung tâm (CVS) so với kỹ thuật CF. Kỹ thuật CF đã được thực hiện trong một số nghiên cứu trên BN và kết quả cho thấy rằng không thay đổi về thể tích cũng như tần số có thể ảnh hưởng đáng kể đến thời gian giữ thông PIC.Chưa có quy trình chuẩn hoặc bằng chứng lâm sàng đầy đủ liên quan đến việc bơm tráng và không có sự đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu về hướng dẫn sử dụng để duy trì sự thông mở của catheters.Để đánh giá khả năng hoạt động của PIC, nhà nghiên cứu đã đưa ống tiêm (2 mL) vào cổng PIC (sau khi tháo nút khóa luer) và pít tông ống tiêm được kéo bằng tay; đảo ngược có máu trong nòng ống tiêm được coi là sự thông mở của PIC.

Kiến thức điều dưỡng luôn tìm cách cải thiện chất lượng chăm sóc BN và kỹ thuật bơm tráng catheter có thể làm giảm tần suất đặt PIC và giúp BN bớt đau và lo lắng hơn.

Do đó, nghiên cứu này nhằm mục đích so sánh tác động của PF và CF về thời gian và tình trạng thông mở của PIC ở các BN.

🍀Phương pháp: Trong thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi này, 71 BN được phân ngẫu nhiên vào hai nhóm PF (n=35) và CF (n=36).

Quy trình PF được thực hiện bằng cách bơm ngắt quãng liên tiếp 1 mL NaCl 0.9%/giây với độ trễ ngừng ngắt quãng dưới 1 giây cho đến khi hoàn thành 5 mL dung dịch.Kỹ thuật bơm CF được thực hiện với 5 mL NaCl 0.9% trong 5 giây mà không có bất kỳ sự trễ ngừng nào trước và sau mỗi lần dùng thuốc.Dữ liệu liên quan đến thời gian và tình trạng thông suốt PIC được thu thập bằng cách sử dụng bảng kiểm đánh giá mỗi sau 12 giờ (h) cho đến 96 giờ. Việc phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm thống kê R.

🌼Kết quả: cho thấy số lượng PIC còn thông không khác biệt đáng kể giữa các nhóm PF & CF trong 96 giờ.Số lượng PIC cao nhất bị loại khỏi nghiên cứu có liên quan đến thời gian 96 giờ do tình trạng thông thoáng một phần ở hai nhóm.

🍁Bàn luận:

Keogh và cộng sự đã kiểm tra tác động của bốn chế độ CF khác nhau (3 mL và 10 mL NS được thực hiện mỗi 6, 24 giờ trước và sau mỗi lần tiêm thuốc) và báo cáo rằng không có chế độ nào vượt trội.Tắc nghẽn xảy ra ở 14% số PIC, nhiều hơn nhóm CF trong nghiên cứu của chúng tôi (11,11%). Sự khác biệt dường như là do kích thước khác nhau của PIC được sử dụng trong hai nghiên cứu.Mặc dù chúng tôi chỉ sử dụng PIC cỡ 20 nhưng Keogh và cộng sự đã sử dụng PIC cỡ 20, 22.Theo một nghiên cứu khác của Wallis và Cs., PIC lớn hơn và nhỏ hơn số 20 có thể làm giảm thời gian duy trì PIC của.Hơn nữa, nghiên cứu được đề cập không xác định thời gian bơm NS trong quy trình CF.

Kết quả nghiên cứu in vitro của Ferroni và Cs. cho thấy kỹ thuật PF ít nhất có hiệu quả gấp đôi so với CF trong việc giảm tỷ lệ vi khuẩn xâm nhập vào PIC. Kỹ thuật CF bao gồm bơm 10 mL NS bằng một động tác tay vào ống thông. Hơn nữa, PF được thực hiện bằng cách tiêm 1 mL NS trong 1/10 giây với thời gian tạm dừng 0,9 giây cho đến khi tiêm xong 10 mL. Thời gian bơm tráng kéo dài 10 giây và ít hơn thời gian trong nghiên cứu của chúng tôi. Việc tăng thời gian bơm dẫn đến giảm tốc độ dòng chảy, sau đó làm giảm tốc độ làm sạch(Parreira và Cs.).

Guiffant và Cs., đã thực hiện một nghiên cứu in vitro, trong đó 10 mL NS được tiêm vào 6 thời điểm khác nhau (2,5-5- 10-20-40-60 giây) bolus bằng kỹ thuật CF.Số lượng PIC được làm sạch cao nhất liên quan đến thời gian 2,5 giây. Ngoài ra, hiệu quả của kỹ thuật PF đã được xem xét sau khi tiêm 1 mL NS trong vòng 0,5 giây và tạm dừng ở 6 lần (0,1-0,2-0,4-0,5-0,6 và 0,8 giây) cho đến khi tổng thể tích 10 mL.Quá trình thanh lọc tối đa xảy ra ở mức tạm dừng 0,4 giây.Vì chúng tôi không thể điều chỉnh thời gian chính xác là 0,4 giây bằng cách di chuyển kim nên thời gian tạm dừng được coi là nhỏ hơn 1 giây.

Chúng tôi loại trừ những bệnh nhân được truyền dịch quá 12 giờ.Guiffant, nhận thấy rằng truyền 500 mL NS trong thời gian 24 giờ dẫn đến việc làm sạch ống thông và tác động tích cực đến độ bền của mạch máu.Tuy nhiên, nó có thể hạn chế hoạt động của BN và thậm chí có thể gây nguy hiểm ở một số BN như suy tim sung huyết (CHF),suy thận mãn tính (CRF) do dư dịch.

Chúng tôi đã sử dụng NS trong nghiên cứu hiện tại để duy trì tính ổn định của PIC.Tác dụng NS đã được so sánh với nước muối có heparin trong hầu hết các biện pháp can thiệp được thực hiện để mở ống thông mà không có sự khác biệt đáng kể.Do nguy cơ gây giảm tiểu cầu, quá mẫn và hạn chế sử dụng ở bệnh nhân mắc bệnh đông máu nên heparin ít được khuyến khích sử dụng.

Ngoài ra, trong nghiên cứu của Klein và cộng sự, việc sử dụng nước muối có heparin và NS không mang lại sự khác biệt nào về độ thông của PIC.

Dựa trên kết quả của Heidari Gorji và Cs., 2 dung dịch (3 mL NS có heparin và 10 mL NS) cho thấy không có sự khác biệt đáng kể về khả năng hoạt động thông của CVC trong 21 ngày. Kỹ thuật khóa (tiêm dung dịch đã xác định qua nút khóa luer sau khi dùng thuốc cuối cùng) đã được sử dụng trong nghiên cứu này, kỹ thuật này có hiệu quả đối với sự thông thoáng của ống thông.

Trong nghiên cứu hiện tại, chúng tôi đã bơm 5 mL NS trước và sau khi dùng thuốc,có thể hoạt động như một dung dịch khóa.

Xu và Cs., cho rằng không có sự khác biệt về độ thông suốt của PIC giữa 2 nhóm khi tiêm NS (3 mL) và NS có heparin hóa (3 mL với 150 đơn vị heparin) sau khi tiêm thuốc.Tắc nghẽn xảy ra ở 18,16% với 3 mL NS, trong khi trong nghiên cứu hiện tại, 11,11% PIC đã bị hư trong tổng cộng 96 giờ ở nhóm CF.

📝Kết luận: Có nhiều phương pháp khác nhau để giữ thông PIC như truyền NS liên tục trong 24 giờ,khóa đường truyền bằng NS hoặc Heparined saline, cũng như PF và CF.Kỹ thuật bơm tráng được thực hiện trước và sau mỗi lần tiêm thuốc vào PIC.Thời gian và thể tích dung dịch của chúng rất quan trọng trong việc loại bỏ mảng bám trong PIC và ống tĩnh mạch. Kết quả nghiên cứu hiện tại cho thấy không có sự khác biệt giữa kỹ thuật CF và PF tại thời điểm hoạt động của PIC.Vì vậy, cả hai kỹ thuật đều có thể được sử dụng cho mục đích này.

 

Tham khảo

Hosseini, S. J., Eidy, F., Kianmehr, M., Firouzian, A. A., Hajiabadi, F., Marhamati, M., & Firooz, M. (2021). Comparing the Effects of Pulsatile and Continuous Flushing on Time and Type of Peripheral Intravenous Catheters Patency: A Randomized Clinical Trial. Journal of caring sciences, 10(2), 84–88. https://doi.org/10.34172/jcs.2021.016

Ferroni A, Gaudin F, Guiffant G, Flaud P, Durussel JJ, Descamps P. et al. Pulsative flushing as a strategy to prevent bacterial colonization of vascular access devices. Med Devices (Auckl) 2014;7:379–83. doi: 10.2147/MDER.S71217.

Guiffant G, Durussel JJ, Merckx J, Flaud P, Vigier JP, Mousset P. Flushing of intravascular access devices (IVADs) – efficacy of pulsed and continuous infusions. J Vasc Access. 2012;13(1):75–8. doi: 10.5301/JVA.2011.8487

Heidari Gorji MA, Rezaei F, Jafari H, Yazdani Cherati J. Comparison of the effects of heparin and 0.9% sodium chloride solutions in maintenance of patency of central venous catheters. Anesth Pain Med. 2015;5(2):e22595. doi: 10.5812/aapm.2259

Keogh S, Flynn J, Marsh N, Mihala G, Davies K, Rickard C. Varied flushing frequency and volume to prevent peripheral intravenous catheter failure: a pilot, factorial randomised controlled trial in adult medical-surgical hospital patients. Trials. 2016;17(1):348. doi: 10.1186/s13063-016-1470-6

Parreira P, Sousa LB, Marques IA, Santos-Costa P, Braga LM, Cruz A. et al. Double-chamber syringe versus classic syringes for peripheral intravenous drug administration and catheter flushing: a study protocol for a randomised controlled trial. Trials. 2020;21(1):78. doi: 10.1186/s13063-019-3887-1

 

Xu L, Hu Y, Huang X, Fu J, Zhang J. Heparinized saline versus normal saline for maintaining peripheral venous catheter patency in China: an open-label, randomized controlled study. J Int Med Res. 2017;45(2):471–80. doi: 10.1177/0300060516685203

Wallis MC, McGrail M, Webster J, Marsh N, Gowardman J, Playford EG. et al. Risk factors for peripheral intravenous catheter failure: a multivariate analysis of data from a randomized controlled trial. Infect Control Hosp Epidemiol. 2014;35(1):63–8. doi: 10.1086/674398

Was this helpful?

Có  Không
Bài liên quan
  • PIVC ở trẻ sơ sinh
  • Tác động của công nghệ soi tĩnh mạch và đặt đường tĩnh mạch truyền thống đối với tình trạng đau và hành vi ở trẻ sinh non
  • Keo dán mô dùng để dán đường truyền tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh: Một sáng kiến ​​đầy hứa hẹn?
  • Thách thức của việc đặt lại catheter tĩnh mạch ngoại vi ở trẻ sơ sinh
  • AVATAR – Chăm sóc catheter tĩnh mạch ngoại vi tại các khoa cấp cứu của Úc: Chúng ta có đạt tiêu chuẩn không?
  • Công nghệ hiển thị hình ảnh tĩnh mạch để tiếp cận tĩnh mạch ngoại biên ở bệnh nhân nhi

Didn't find your answer? Liên hệ

Leave A Comment Hủy

Quản lý đường truyền xâm lấn mạch máu [Vascular Access Devices]
  • So sánh ảnh hưởng của bơm thông tráng đường truyền tĩnh mạch với kỹ thuật ngắt quãng 📌[Pulsatite Flushing – PF] và kỹ thuật liên tục 📌[Continous Flushing – CF]
  • QI Vai trò Nhóm chuyên trách chăm sóc quản lý đường truyền xâm lấn mạch máu
  • Tỷ lệ mắc, các yếu tố nguy cơ và kết quả của nhiễm khuẩn máu liên quan đến đường truyền tĩnh mạch trung tâm ở bệnh nhân chấn thương
  • Các biến chứng không nhiễm trùng của catheters tĩnh mạch ngoại vi ở người lớn
  • Năng lực và sự tự tin của việc đặt ống thông tĩnh mạch ngoại vi ở điều dưỡng khoa nội ngoại.
  • Tất cả bệnh nhân đều cần đặt PIVC, có đúng hay không
  • Gánh nặng của catheter tĩnh mạch ngoại vi ở bệnh nhân lớn tuổi nội trú
  • Thất bại khi đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi lần đầu trước mổ ở người lớn: Phát triển thang dự đoán VENSCORE
  • Tỷ lệ mắc và các yếu tố nguy cơ gây thất bại trong quản lý chăm sóc thiết bị tĩnh mạch trung tâm [CVAD] ở người lớn nhập viện nội trú
  • Cải tiến lâm sàng: Tăng tỷ lệ thành công của đặt đường truyền tĩnh mạch lớn và nhỏ
  • Một cách tiếp cận mới để có được khả năng mở đường truyền tĩnh mạch lớn ở trẻ em
  • Tối ưu hóa hiệu quả của catheter tĩnh mạch ngoại vi ngắn
  • Đặt PIVC dưới hướng dẫn bằng siêu âm cho NB có đánh giá tĩnh mạch khó [DIVA] là một kỹ năng có giá trị đối với các Điều dưỡng
  • Cố định PIVC kết hợp cho bệnh nhân nhi giúp giảm tỷ lệ thất bại, tiết kiệm chi phí
  • Thực hành và hiệu suất của catheter tĩnh mạch ngoại vi ở trẻ em trong NC toàn cầu: Phân tích thứ cấp về 4206 PIVC ở trẻ em
  • Khảo sát kiến thức của điều dưỡng về kỹ thuật vô khuẩn không chạm
  • Giảm tỷ lệ nhiễm trùng huyết liên quan đến đường truyền trung tâm tại các đơn vị chăm sóc đặc biệt ở 30 quốc gia có thu nhập thấp và trung bình
  • Đánh giá kết quả của một gói gồm 11 thành phần và phương pháp tiếp cận đa chiều của INICC trong việc giảm tỷ lệ nhiễm trùng huyết liên quan đến đường truyền trung tâm tại 9 nước Châu Á
  • Nghiên cứu trường hợp nhiều lần cố gắng đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở trẻ sơ sinh
  • Tối ưu hóa các mẫu dòng truyền dịch để giảm thiểu chấn thương thành tĩnh mạch
  • Hiệu quả về mặt chi phí của chương trình đào tạo tiếp cận mạch máu tại khoa cấp cứu
  • Ảnh hưởng của tỷ lệ đường kính catheter so với đường kính tĩnh mạch đến thành công của việc đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi, một phân tích hậu kiểm
  • Mô hình AI [trí tuệ nhân tạo] để xác minh đầu ống thông tĩnh mạch trung tâm
  • Tác hại của việc nuôi cấy máu đường truyền trung tâm không phù hợp trong thực hành lâm sàng
  • Điều dưỡng cần hiểu các chỉ định đặt ống thông tĩnh mạch ngoại vi
  • Lựa chọn tĩnh mạch trong đặt PIVC
  • Tác động của việc thiếu hụt đầu nối không kim và bơm tiêm nước muối đóng gói sẵn lên tỷ lệ CLABSI trong tại 1 đơn vị PICU
  • Tần suất thay đổi bộ truyền dịch cho ống thông tĩnh mạch trung tâm tại các Đơn vị chăm sóc đặc biệt của Úc và New Zealand là bao nhiêu?
  • Hiệu quả của can thiệp đa phương thức bao gồm thông báo nhắc tự động về ngày đặt ống thông để giảm nhiễm trùng máu liên quan đến đường truyền trung tâm
  • Hoạt tính dược động học và kháng khuẩn của một loại băng hydrogel có chlorhexidine
  • Viêm tĩnh mạch nặng và hoại tử da sau khi dùng kali clorua nồng độ cao ở ngoại vi: Báo cáo ca bệnh
  • Amiodarone-induced phlebitis
  • Tác dụng giảm đau của 03 phương pháp không dùng thuốc khác nhau trong đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở người lớn
  • Đau khi đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên: Kích thước của kim không liên quan
  • Đau khi đặt kim có liên quan đến kích thước kim khác nhau
  • Sát trùng da trẻ sơ sinh bằng dung dịch chlorhexidine chứa cồn 2%
  • Băng dán kháng khuẩn dán vị trí catheter tĩnh mạch trung tâm giúp giảm nhiễm trùng liên quan đến catheter ở trẻ sơ sinh
  • Hiểu về viêm tĩnh mạch
  • Quản lý chăm sóc đường truyền tĩnh mạch trung tâm ở trẻ em
  • Đặt tĩnh mạch ngoại vi dưới hướng dẫn siêu âm [USG-PIVC
  • Sát khuẩn các đầu nối không kim của thiết bị tiêm truyền tĩnh mạch trung tâm
  • The LANCET – Can thiệp đa phương thức để phòng ngừa thất bại khi đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở người lớn (PREBACP)
  • Điểm số đường truyền tĩnh mạch khó [DIVA] ở trẻ em
  • Kỹ thuật và công nghệ để cải thiện kết quả đặt ống thông tĩnh mạch ngoại vi ở bệnh nhi: Đánh giá hệ thống và phân tích tổng hợp
  • Thực hành ở Brazil của các Điều dưỡng về việc lắp các thiết bị tiếp cận mạch máu ngoại vi
  • Năng lực và sự tự tin của việc đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở điều dưỡng
  • UK Vessel Health and Preservation (VHP) Framework 2020
  • Công nghệ hiển thị hình ảnh tĩnh mạch để tiếp cận tĩnh mạch ngoại biên ở bệnh nhân nhi
  • AVATAR – Chăm sóc catheter tĩnh mạch ngoại vi tại các khoa cấp cứu của Úc: Chúng ta có đạt tiêu chuẩn không?
  • Thách thức của việc đặt lại catheter tĩnh mạch ngoại vi ở trẻ sơ sinh
  • Keo dán mô dùng để dán đường truyền tĩnh mạch cho trẻ sơ sinh: Một sáng kiến ​​đầy hứa hẹn?
  • Tác động của công nghệ soi tĩnh mạch và đặt đường tĩnh mạch truyền thống đối với tình trạng đau và hành vi ở trẻ sinh non
  • PIVC ở trẻ sơ sinh
Danh mục
  • An toàn trong chăm sóc
  • An toàn trong sử dụng thuốc
  • Chăm sóc hồi sức tích cực & cấp cứu [Critical Care]
  • Chăm sóc nội khoa
  • Chuyên Khoa
  • Chuyên khoa
  • Điều dưỡng
  • Điều dưỡng
  • Kiểm soát nhiễm khuẩn
  • Kinh tế Y tế
  • Kinh tế Y tế
  • QLCL & ATNB
  • QLCL & ATNB
  • Quản lý Chăm sóc vết thương
  • Quản lý chi phí y tế điều dưỡng
  • Quản lý đường truyền xâm lấn mạch máu [Vascular Access Devices]
  • Quản lý nhân lực điều dưỡng
  • Quản Lý Y tế
  • Quản Lý Y tế
  • Tài liệu & Báo cáo

  Amiodarone-induced phlebitis

Tác dụng giảm đau của 03 phương pháp không dùng thuốc khác nhau trong đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi ở người lớn  

  • Privacy Policy
  • Terms of Use
  • Copyright 2025 Thuvienykhoa.com.vn. All Rights Reserved.