• Trang chủ
  • Thư viện sách
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Tài liệu & Báo cáo
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên Khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Đào tạo
  • Thành tựu Y khoa
  • Tin tức
  • Liên hệ
  • Trang chủ
  • Thư viện sách
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Tài liệu & Báo cáo
    • Quản Lý Y tế
    • Kinh tế Y tế
    • Chuyên Khoa
    • QLCL & ATNB
    • Điều dưỡng
  • Đào tạo
  • Thành tựu Y khoa
  • Tin tức
  • Liên hệ
Trang chủ/Thư viện/Tài liệu & Báo cáo/Kiểm soát nhiễm khuẩn/The LANCET – Tỷ lệ mắc và tỷ lệ lưu hành của tình trạng kháng thuốc kháng sinh ở bệnh nhân ung thư ngoại trú: một nghiên cứu đa trung tâm, hồi cứu, theo dõi

The LANCET – Tỷ lệ mắc và tỷ lệ lưu hành của tình trạng kháng thuốc kháng sinh ở bệnh nhân ung thư ngoại trú: một nghiên cứu đa trung tâm, hồi cứu, theo dõi

12 xem 0 28/05/2025 vll

The LANCET – Tỷ lệ mắc và tỷ lệ lưu hành của tình trạng kháng thuốc kháng sinh ở bệnh nhân ung thư ngoại trú: một nghiên cứu đa trung tâm, hồi cứu, theo dõi

Vikas Gupta, PharmD, Michael J Satlin, MD, Kalvin C Yu, MDa, Yehoda Martei, MD, Prof Lillian Sung, MD, Lars F Westblade, PhD

Nhiễm trùng là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ hai ở những bệnh nhân ung thư và thường do vi khuẩn kháng thuốc gây ra. Tuy nhiên, tần suất kháng thuốc kháng sinh (AMR) ở những bệnh nhân ngoại trú mắc ung thư vẫn chưa được hiểu rõ. Các tác giả đặt mục tiêu so sánh tần suất các tác nhân gây bệnh do vi khuẩn AMR ở những bệnh nhân ngoại trú mắc và không mắc ung thư.

Phương pháp

Nghiên cứu theo dõi hồi cứu này đã đánh giá tính nhạy cảm với thuốc kháng sinh của vi khuẩn được phân lập từ những người lớn (tuổi từ ≥18) mắc và không mắc ung thư đang tìm kiếm sự chăm sóc tại 198 cơ sở chăm sóc sức khỏe ngoại trú tại Hoa Kỳ. Dữ liệu được thu thập bằng Cơ sở dữ liệu nghiên cứu BD Insights. Những bệnh nhân không được kê đơn thuốc điều trị ung thư hoặc không được đưa vào khoa điều trị ung thư nội trú trong khoảng thời gian được xác định trước được phân loại là những bệnh nhân không mắc ung thư. Những bệnh nhân được đưa vào nhóm bệnh nhân ung thư nếu họ chỉ dùng thuốc hoặc đôi khi được chỉ định dùng thuốc điều trị ung thư. Dữ liệu về giới tính, chủng tộc hoặc dân tộc không được thu thập. Các tác nhân gây bệnh không trùng lặp và không gây ô nhiễm được thu thập từ nhiều mẫu khác nhau (tức là máu, trong ổ bụng, hô hấp, nước tiểu, da hoặc vết thương và các mẫu khác) ở bệnh nhân ngoại trú đã được sử dụng để đánh giá các kết quả chính: tỷ lệ chung và tỷ lệ cụ thể theo nguồn của các phân lập tác nhân gây bệnh không nhạy cảm với tỷ lệ chênh lệch AMR (OR) tương ứng; và tỷ lệ tác nhân gây bệnh AMR trên 1000 phân lập với tỷ lệ mắc AMR (IRR) tương ứng ở bệnh nhân mắc và không mắc ung thư.

Kết quả

Dữ liệu được thu thập từ ngày 1 tháng 4 năm 2018 đến ngày 31 tháng 12 năm 2022. 53.006 (3,2%) trong số 1.655.594 tác nhân gây bệnh được xác định là từ 27.421 bệnh nhân ung thư và 1.602.588 (96,8%) là từ 928.128 bệnh nhân không bị ung thư.

Đối với Pseudomonas aeruginosa, khả năng không nhạy cảm với carbapenem cao hơn ở các phân lập tác nhân gây bệnh từ bệnh nhân ung thư (816 [14,4%] trong số 5.683) so với bệnh nhân không bị ung thư (10.709 [11,3%] 94.419; OR 1,22 [95% CI 1,13–1,32]).

Đối với Enterobacterales, khả năng không nhạy cảm với fluoroquinolone cao hơn ở các phân lập mầm bệnh từ bệnh nhân ung thư (8662 [28,0%] trong số 30.867) so với bệnh nhân không ung thư (238.479 [21,8%] trong số 1.095.996; OR 1,44 [1,40–1,47]), cũng như khả năng không nhạy cảm với carbapenem (472 [1,5%] trong số 30.867 so với 9165 [0,8%] trong số 1.095.996; OR 1,89 [1,72–2,07]), mầm bệnh kháng nhiều loại thuốc (2672 [8,7%] trong số 30.867 so với 48.962 [4,5%] trong số 1.095.996; OR 2,03 [1,95–2,11]) và các nhà sản xuất β-lactamase phổ mở rộng (4.343 [16,5%] trong số 26.327 so với 93.977 [9,4%] trong số 996.853; OR 1,96 [1,90–2,03]).

Đối với Staphylococcus aureus, khả năng kháng methicillin cao hơn ở các phân lập mầm bệnh từ bệnh nhân ung thư (4.747 [53,0%] trong số 8.959) so với bệnh nhân không bị ung thư (129.291 [48,3%] trong số 267.520; OR 1,20 [1,15–1,25]).

Đối với Enterococcus spp, khả năng kháng vancomycin cao hơn ở các chủng vi khuẩn gây bệnh từ bệnh nhân ung thư (1329 [18,6%] trong số 7145) so với bệnh nhân không bị ung thư (12.333 [9,1%] trong số 135.772]; ORR 2,20 [2,06–2,34).

Tỷ lệ và IRR tương ứng của các tác nhân gây bệnh AMR trên 1000 chủng cũng cao hơn ở bệnh nhân ung thư so với bệnh nhân không bị ung thư, đặc biệt đối với P aeruginosa không nhạy cảm với carbapenem (IRR 2,06 [1,91–2,21]) và enterococci kháng vancomycin (IRR 3,06 [2,89–3,24]). Đối với tất cả các so sánh, p < 0,0001.

 

Diễn giải

Tỷ lệ AMR và IRR đối với hầu hết các tác nhân gây bệnh chính cao hơn tới ba lần ở các mẫu phân lập từ bệnh nhân ngoại trú bị ung thư so với những bệnh nhân không bị ung thư, điều này làm nổi bật nhu cầu tăng cường giám sát, phòng ngừa nhiễm trùng và quản lý chẩn đoán kịp thời để cải thiện việc kê đơn kháng sinh trong nhóm dân số này.

Trích DOI: 10.1016/S1470-2045(25)00128-7

 

Was this helpful?

Có  Không
Bài liên quan
  • CDC US – Chi phí y tế trực tiếp của nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc y tế tại các bệnh viện Hoa Kỳ và lợi ích của việc phòng ngừa
  • NEJM – Một cách tiếp cận dựa trên bằng chứng để tiêm vaccine phòng Covid-19
  • Báo Cáo Giám Sát Kháng Kháng Sinh Tại Việt Nam năm 2020 của Bộ Y tế
  • Nhiễm khuẩn liên quan đến thiết bị và phẫu thuật tại các bệnh viện ở Canada
  • Dây garrot tái sử dụng có là vật trung gian nguy cơ lây nhiễm tiềm tàng
  • Kiệt sức trong công việc làm giảm sự tuân thủ vệ sinh tay của điều dưỡng

Didn't find your answer? Liên hệ

Leave A Comment Hủy

Kiểm soát nhiễm khuẩn
  • The LANCET – Tỷ lệ mắc và tỷ lệ lưu hành của tình trạng kháng thuốc kháng sinh ở bệnh nhân ung thư ngoại trú: một nghiên cứu đa trung tâm, hồi cứu, theo dõi
  • Có nên rút mẫu cấy máu qua catheters lưu không?
  • JAMA – Povidone Iodine và Chlorhexidine Gluconate chứa cồn để sát trùng da trước phẫu thuật
  • Lancet-Gánh nặng toàn cầu của tình trạng kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn 1990–2021: phân tích có hệ thống với dự báo đến năm 2050
  • Lancet – AMR đã là mối đe dọa sức khỏe toàn cầu đáng kể trong nhiều thập kỷ
  • NEJM – Chúng ta có thể rút ngắn thời gian điều trị bằng kháng sinh cho bệnh nhiễm khuẩn huyết không?
  • Kiệt sức trong công việc làm giảm sự tuân thủ vệ sinh tay của điều dưỡng
  • Dây garrot tái sử dụng có là vật trung gian nguy cơ lây nhiễm tiềm tàng
  • Nhiễm khuẩn liên quan đến thiết bị và phẫu thuật tại các bệnh viện ở Canada
  • Báo Cáo Giám Sát Kháng Kháng Sinh Tại Việt Nam năm 2020 của Bộ Y tế
  • NEJM – Một cách tiếp cận dựa trên bằng chứng để tiêm vaccine phòng Covid-19
  • CDC US – Chi phí y tế trực tiếp của nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc y tế tại các bệnh viện Hoa Kỳ và lợi ích của việc phòng ngừa
Danh mục
  • An toàn trong chăm sóc
  • An toàn trong sử dụng thuốc
  • Chăm sóc hồi sức tích cực & cấp cứu [Critical Care]
  • Chăm sóc nội khoa
  • Chuyên Khoa
  • Chuyên khoa
  • Điều dưỡng
  • Điều dưỡng
  • Kiểm soát nhiễm khuẩn
  • Kinh tế Y tế
  • Kinh tế Y tế
  • QLCL & ATNB
  • QLCL & ATNB
  • Quản lý Chăm sóc vết thương
  • Quản lý chi phí y tế điều dưỡng
  • Quản lý đường truyền xâm lấn mạch máu [Vascular Access Devices]
  • Quản lý nhân lực điều dưỡng
  • Quản Lý Y tế
  • Quản Lý Y tế
  • Tài liệu & Báo cáo

  NEJM – Một cách tiếp cận dựa trên bằng chứng để tiêm vaccine phòng Covid-19

CDC US – Chi phí y tế trực tiếp của nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc y tế tại các bệnh viện Hoa Kỳ và lợi ích của việc phòng ngừa  

  • Privacy Policy
  • Terms of Use
  • Copyright 2025 Thuvienykhoa.com.vn. All Rights Reserved.