Thực hành ở Brazil của các Điều dưỡng về việc lắp các thiết bị tiếp cận mạch máu ngoại vi
Bianka Sousa Martins Silva và cộng sự. Rev Lat Am Enfermagem. 2024.
Universidade Federal de São Paulo, Escola Paulista de Enfermagem, São Paulo, SP, Brazil
Nghiên cứu cắt ngang đa quốc gia được thực hiện ở năm quốc gia Mỹ Latinh chỉ ra rằng khoảng 70% bệnh nhân nhập viện trải nghiệm qua PIC. Mặc dù thường xuyên, nhưng thực hành này có thể gây ra các biến chứng dẫn đến tỷ lệ mắc bệnh và tử vong, tăng thời gian nằm viện và chi phí đáng kể ảnh hưởng đến tình trạng lâm sàng và diễn biến của bệnh nhân. Đặt PIVC là một thủ thuật gây căng thẳng cho bệnh nhân và gia đình trong thời gian nằm viện và có liên quan đến sự gia tăng nỗi sợ kim tiêm và sự phản kháng ở những người trưởng thành tìm kiếm sự chăm sóc tại các dịch vụ y tế.
Mục tiêu: xác định và so sánh thực hành của các Điều dưỡng về việc lắp các thiết bị tiếp cận mạch máu ngoại vi, theo danh mục chuyên môn.
Phương pháp: nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ tháng 7 năm 2021 đến tháng 5 năm 2022 với 2.584 Điều dưỡng, sử dụng bảng câu hỏi được xác nhận bởi 3 thẩm định viên có chuyên môn về liệu pháp tiêm tĩnh mạch, bao gồm các biến số liên quan đến việc đặt ống thông và thiết bị tiếp cận mạch máu. Phân tích mô tả và suy luận đã được thực hiện.
Kết quả: hầu hết các ĐD không chuẩn bị cho bệnh nhân hoặc thực hiện một số chăm sóc cần thiết trước khi thử đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên.
Về vị trí đặt ống thông ưa thích, bàn tay, cánh tay và cẳng tay nổi bật.
Bảng 1. – Việc chuẩn bị và chăm sóc bệnh nhân được thực hiện bởi các chuyên gia Điều dưỡng trước mỗi lần thử đặt thiết bị truy cập mạch máu theo hạng chuyên môn (n = 2.584). Braxin, 2022
Không kiểm soát được thời gian thắt dây garô và bệnh nhân bị thủng hơn ba lần.
Hầu hết các ĐD và kỹ thuật viên đánh giá tĩnh mạch thông qua làm ấm, trong khi trợ lý điều dưỡng sử dụng các phương pháp truyền thống, chẳng hạn như sờ nắn và quan sát mạch máu. Hầu hết các chuyên gia Điều dưỡng đều sử dụng các công cụ lâm sàng để đánh giá tĩnh mạch phức tạp ( Bảng 2 ).
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các chuyên gia đánh giá mạng lưới tĩnh mạch bằng ống soi tĩnh mạch, siêu âm mạch máu hoặc ứng dụng nhiệt, các công cụ đánh giá mạng lưới tĩnh mạch khó và những người liệt kê thời gian sử dụng IVT, phân loại và tính chất của thuốc cũng như khả năng hiển thị của tĩnh mạch làm tiêu chí để lựa chọn tĩnh mạch ngoại vi.
Tại vị trí đặt ống thông thay đổi ở trẻ em và người lớn, cũng có sự khác biệt đáng kể giữa ba nhóm, theo các giá trị dư được điều chỉnh được trình bày trong Bảng 2.
Kỹ thuật garô được trích dẫn thường xuyên nhất là garô phổ thông, với thời gian thay đổi từ 30 giây đến 1 phút. Về khoảng cách giữa dây garô và khu vực đặt ống thông, có sự phân bổ công bằng. Cũng cần lưu ý rằng một số lượng đáng kể các chuyên gia Điều dưỡng sử dụng phương pháp đặt thiết bị trực tiếp và thực hiện hai hoặc ba lần đặt PIVC.
Hầu hết các ĐD đều sử dụng thiết bị 24 (G) ở trẻ em và thiết bị 20G ở người lớn. Cũng có thể thấy rằng có nhiều hơn một tiêu chí được áp dụng để lựa chọn thiết bị, trong đó tiêu chí được liệt kê nhiều nhất là: kích cỡ mạch máu, độ mỏng manh của da, thời gian sử dụng liệu pháp và loại dịch truyền.
PIVC được sử dụng nhiều nhất là polyurethane và Teflon ®, có nhiều tiêu chí được áp dụng để lựa chọn thiết bị và băng dính loại Micropore ® là băng dán được các Điều dưỡng đề cập nhiều nhất. Việc xác định ống thông là không đầy đủ.
Kết luận: Kỹ thuật viên và trợ lý điều dưỡng là những người ít tuân thủ nhất những gì được khuyến nghị trong các hướng dẫn được công nhận.
Thực hành của ĐD cũng thể hiện những sai lệch so với bằng chứng khoa học.
Nguồn
Silva, B. S. M., Santos, L. M. D., Rocha, P. K., Mota, A. N. B., Avelar, A. F. M., & Kusahara, D. M. (2024). National practice of Nursing professionals in the insertion of peripheral vascular access devices. Revista latino-americana de enfermagem, 32, e4314. https://doi.org/10.1590/1518-8345.6673.4314
.