UK Vessel Health and Preservation (VHP) Framework: a commentary on the updated VHP 2020
Tác giả Carole Hallam, Andrea Denton, Valya Weston
AC Independent Nursing Consultants, Huddersfield, UK
Alder Hey Children’s NHS Foundation Trust, Liverpool, Merseyside, UK
Giới thiệu
Khái niệm quản lý thiết bị tiếp cận mạch máu (VAD) dựa trên bằng chứng bảo tồn mạch máu (Vessel Health & Preservation VHP) ban đầu được giới thiệu ở Hoa Kỳ vào năm 2012 (Moureau và cộng sự, 2012).
Bản chất của VHP là hỗ trợ các NVYT (HCP) cung cấp lựa chọn VAD thích hợp, kịp thời, có chủ ý và chủ động để đạt được mức độ tổn thương tối thiểu cho tĩnh mạch của bệnh nhân.
VHP cũng kết hợp đánh giá ban đầu và liên tục về sự cần thiết của thiết bị cũng như việc bảo trì liên tục (Fiorini và cộng sự, 2018; Moureau và cộng sự, 2012).
Khung VHP của Vương quốc Anh được điều chỉnh và phát triển từ mô hình của Hoa Kỳ để hỗ trợ những người thực hiện đánh giá tàu và ra quyết định dựa trên nhu cầu cá nhân và đánh giá rủi ro (Hallam et al., 2016).
Bằng chứng mới đã yêu cầu cập nhật khung VHP ban đầu của Vương quốc Anh. Bài viết này mô tả quá trình và trình bày kết quả của bản cập nhật này.
Điều quan trọng đối với bệnh nhân là việc lựa chọn VAD là phù hợp và kịp thời. Lựa chọn kém có thể là do thiếu hướng dẫn rõ ràng về việc lựa chọn thiết bị nào trong các tình huống lâm sàng khác nhau và thiếu hiểu biết về lý do cơ bản để lựa chọn thiết bị cụ thể (Jackson và cộng sự, 2014).
Trong 2 nghiên cứu, việc lựa chọn kém đã dẫn đến tỷ lệ thất bại khi đặt ống thông tĩnh mạch ngoại vi (PIVC) lần đầu tiên là 17% ở bệnh nhân phẫu thuật (van Loon và cộng sự, 2016) và 19% ở bệnh nhân nội khoa và phẫu thuật (van Loon và cộng sự, 2019).
Cũng có bằng chứng cho thấy những lần thử tiếp theo sẽ gây thêm khó chịu cho những bệnh nhân có tĩnh mạch mỏng manh và đặc biệt là những bệnh nhân già yếu (Oliver, 2015). PIVC cũng được phát hiện là thất bại trong việc thực hiện các đợt điều trị trong 35%–50% trường hợp dẫn đến chu kỳ đặt lại PIVC thất bại (Gorski và cộng sự, 2016; Helm và cộng sự, 2015).
Trong một nghiên cứu quốc tế, 10% PIVC được bệnh nhân báo cáo là đau và/hoặc có dấu hiệu viêm tĩnh mạch và 10% nữa có dấu hiệu trục trặc, bao gồm rò rỉ và bong ra do đặt sai vị trí hoặc nhìn thấy máu trong ống dẫn đến việc điều trị bị trì hoãn bao gồm giảm đau, kháng sinh và truyền dịch IV (Alexandrou và cộng sự, 2018). Những phát hiện này hỗ trợ nhu cầu có hướng dẫn cập nhật về đánh giá và lựa chọn VAD.
🌏Đánh giá Khung VHP ban đầu của Vương quốc Anh (2016)
🍀Kể từ khi được giới thiệu vào năm 2016, khung VHP ban đầu của Vương quốc Anh đã được đánh giá bởi hai nghiên cứu. Một nghiên cứu có sự tham gia của các thành viên Hiệp hội Phòng chống Nhiễm trùng (IPS) và Hiệp hội Tiếp cận Mạch máu và Truyền dịch Quốc gia (NIVAS) (Burnett và cộng sự, 2018). Nghiên cứu này sử dụng mô hình logic kết quả để đánh giá kết quả ngắn hạn và trung hạn của Khung VHP. Các phát hiện chỉ ra rằng những người trả lời đã biết về khuôn khổ này, thấy nó dễ hiểu và nó đang được sử dụng theo nhiều cách khác nhau, ví dụ như như một công cụ hỗ trợ giảng dạy và ra quyết định liên quan đến việc lựa chọn thiết bị và đánh giá tĩnh mạch ngoại vi.
🍀Các lợi ích bao gồm cải thiện thực hành lâm sàng, nâng cao kiến thức và sự tự tin trong việc lựa chọn thiết bị, cải thiện trải nghiệm của bệnh nhân và giảm tỷ lệ lây nhiễm (Burnett và cộng sự, 2018). Thứ hai là một nghiên cứu thí điểm quy mô nhỏ để đánh giá tác động của khuôn khổ đối với việc tích hợp và quản lý VAD (Weston và cộng sự, 2017). Trong nghiên cứu đó, khung VHP đã được thử nghiệm tại khoa huyết học bằng cách sử dụng phương pháp Mô hình cải thiện (Taylor và cộng sự, 2014), bao gồm các phép đo sau: kiến thức về HCP trước và sau khi thực hiện; và số ngày kể từ khi nhập viện đến khi được giới thiệu sử dụng VAD và ống thông thay thế. Weston và cộng sự. (2017) lưu ý rằng khuôn khổ này đã trao quyền cho nhân viên tuyến đầu chuyển sang một thiết bị thay thế. Thời gian từ khi bệnh nhân nhập viện đến khi đặt đường truyền cũng giảm xuống. Mặc dù vị trí đặt thiết bị thay thế thích hợp đã tăng lên nhưng vị trí đặt PIVC lại giảm đáng kể (khoảng 30%) (Weston và cộng sự, 2017).
🍀Những đánh giá này cho thấy khung này là một công cụ có giá trị và thiết thực, nhưng vì bằng chứng hỗ trợ khung này đã được thu thập hơn bốn năm trước nên cần phải cập nhật trước khi tìm cách công khai tính khả dụng và cách sử dụng rộng rãi hơn của nó.
🌏Phát triển Khung VHP 2020
Việc xem xét và cập nhật khuôn khổ VHP 2020 của Vương quốc Anh được thực hiện bởi một nhóm chuyên gia làm việc, bao gồm các ĐD KSNK, ĐD tiêm truyền, bác sĩ hồi sức và dược sĩ do IPS phối hợp với Đại học Điều dưỡng Hoàng gia (RCN) và NIVAS dẫn đầu. Ngoài ra, đại diện của Ban cố vấn Medusa đã tham gia nhóm công tác để đưa ra hướng dẫn chuyên môn về thuốc tiêm.
Việc tìm kiếm tài liệu đã được thực hiện để xác định các nghiên cứu và hướng dẫn liên quan đến việc đánh giá và lựa chọn VAD. Việc tìm kiếm được thực hiện bằng Cinahl và Medline bao gồm các thuật ngữ sau: vascular access devices; vascular access device selection; vascular access assessment; vascular access complications; peripheral intravascular catheter; peripheral cannula; midline catheter; peripherally inserted central catheter; central venous catheter; tunnelled central venous catheter; totally implanted port; central vascular access device; and vessel health and preservation.
Các bài viết bị giới hạn ở những bài được xuất bản trong hoặc sau năm 2014 và bằng tiếng Anh.
🌏Những phát hiện
12 bài báo đã được tìm thấy đã được toàn bộ nhóm làm việc xem xét. Chúng bao gồm ba hướng dẫn dựa trên bằng chứng, hai thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên, một tổng quan hệ thống và 10 bài báo khác bao gồm các nghiên cứu quan sát, tiền cứu và xác nhận. Sau khi xem xét các tài liệu này, việc cập nhật tất cả bốn phần chính của Khung VHP 2016 được coi là cần thiết. Những thay đổi được trình bày trong từng phần riêng lẻ, nêu chi tiết bằng chứng mới cùng với phần thảo luận về cách sử dụng bằng chứng này trong VHP 2020.
🌏Đánh giá tĩnh mạch
Khung VHP 2020 cập nhật của Vương quốc Anh hiện kết hợp việc xem xét các bệnh nhân khó tiếp cận đường tĩnh mạch (DIVA) và nhu cầu xác định những bệnh nhân này trong cơ hội sớm nhất (Smith-Ehrhardt và cộng sự, 2018; van Loon và cộng sự, 2019).
Van Loon và cộng sự. (2019) nhận thấy rằng ngay cả những nhân viên y tế giàu kinh nghiệm nhất thực hiện việc hủy bỏ thường xuyên cũng gặp khó khăn trong việc hủy bỏ, với tỷ lệ thất bại lên tới 19% trong lần thử đầu tiên.
Theo truyền thống, bệnh nhân mắc DIVA được xác định sau nhiều lần thất bại trong việc đặt ống PIVC nhưng việc xác định những bệnh nhân này về mặt triển vọng có thể làm giảm tỷ lệ thất bại của việc đặt ống thông và cải thiện trải nghiệm của bệnh nhân (van Loon và cộng sự, 2019). Khung VHP 2020 của Vương quốc Anh khuyến nghị những bệnh nhân đã biết có khả năng tiếp cận IV khó khăn nên được giới thiệu đến bác sĩ chuyên khoa IV và yêu cầu một lộ trình cá nhân hóa.
Hình 1 thể hiện phần đánh giá tĩnh mạch ngoại vi của khung kết hợp kích thước tĩnh mạch và độ khó tiếp cận IV.
🌸Sự phù hợp của thuốc
Khi xem xét liệu một loại thuốc có phù hợp để sử dụng thông qua PIVC hay không, có một mối quan hệ phức tạp giữa các đặc tính vật lý của thuốc, thời gian điều trị dự kiến và quan trọng nhất là chất lượng tĩnh mạch của bệnh nhân (Jackson và cộng sự, 2014).
Tất cả các loại thuốc IV đều có khả năng gây ra mối đe dọa cho sức khỏe mạch máu. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến khả năng tổn thương mạch máu bao gồm độ pH, độ thẩm thấu, độ nhớt, nồng độ, tốc độ truyền, đặc tính gây phồng da hoặc kích ứng và khả năng vận mạch của thuốc. Các hướng dẫn đã được công bố cho thấy ống thông ngoại vi và đường giữa thường không phù hợp với các dịch truyền sau:
🌸Hoá trị liệu gây phồng rộp liên tục
🌸Giải pháp dinh dưỡng qua đường tĩnh mạch
🌸Dung dịch có độ thẩm thấu > 900 mOsmol/L (RCN, 2016)
Các hướng dẫn trước đây cho rằng các dung dịch có độ pH < 5 hoặc > 9 là không phù hợp để sử dụng ngoại vi. Có rất ít bằng chứng ủng hộ điều này và khuyến nghị này không được đưa vào các hướng dẫn quốc gia và quốc tế gần đây (Gorski và cộng sự, 2016; RCN, 2016). Tuy nhiên, sự đồng thuận của các chuyên gia IV tại Hội nghị NIVAS ở Manchester năm 2019 là lời khuyên vẫn có giá trị khi xem xét loại thiết bị phù hợp. Ban cố vấn thuốc tiêm Medusa đã tán thành quan điểm rằng việc sử dụng thông qua thiết bị tiếp cận tĩnh mạch trung tâm sẽ thích hợp hơn đối với các loại thuốc có độ pH cực cao (< 5 và > 9) sau khi pha loãng thích hợp. Đối với những loại thuốc này, Hướng dẫn về Thuốc tiêm đưa ra lời khuyên sau: ‘Thuốc này có độ pH thấp/cao và có thể gây kích ứng tĩnh mạch và tổn thương mô trong trường hợp thoát mạch. Nếu không có thiết bị truy cập tĩnh mạch trung tâm, hãy quản lý thông qua một vị trí chèn theo dõi tĩnh mạch ngoại vi lớn bằng cách sử dụng công cụ chấm điểm viêm tĩnh mạch được công nhận. Đặt lại ống thông khi có dấu hiệu viêm đầu tiên’ (Hướng dẫn về Thuốc tiêm Medusa, 2020).
🌏Công cụ quyết định lựa chọn đường truyền đúng
Công cụ quyết định đường truyền đúng được trình bày dưới dạng thuật toán hỗ trợ bác sĩ lâm sàng đưa ra quyết định khi lựa chọn VAD cho bệnh nhân. Điều này hỗ trợ tối ưu hóa việc lựa chọn thiết bị, từ đó giảm các biến chứng có thể tránh được, ví dụ như bị đâm kim nhiều lần, viêm tĩnh mạch, viêm tĩnh mạch huyết khối, nhiễm trùng vị trí chèn và nhiễm trùng máu (Hallam và cộng sự, 2016). Vì vậy, việc sử dụng nó có tiềm năng nâng cao hiệu quả và giảm chi phí.
Thuật toán cho phép bác sĩ lâm sàng kết hợp các đánh giá với loại thuốc dự định, tình trạng tĩnh mạch ngoại biên và thời gian điều trị khi đưa ra quyết định lựa chọn VAD.
Nếu việc lựa chọn thuốc và thời gian điều trị phù hợp với điều trị ngoại biên thì PIVC có thể phù hợp tùy thuộc vào đánh giá tĩnh mạch ngoại biên (xem phần đánh giá tĩnh mạch để biết thông tin về đánh giá, sử dụng công nghệ và kinh nghiệm cần thiết để hủy bỏ).
Khung VHP 2020 được cập nhật của Vương quốc Anh bao gồm việc sử dụng ống thông có chiều dài mở rộng (được đặt bằng hướng dẫn siêu âm vào các tĩnh mạch sâu hơn) dựa trên bằng chứng từ các nghiên cứu sau.
Một thử nghiệm ngẫu nhiên, không được che chắn, tại một địa điểm về khả năng sống sót của ống thông ở bệnh nhân trưởng thành đến Khoa Cấp cứu (ED) cho thấy thời gian sống sót trung bình tăng lên là 136 giờ với PIVC có chiều dài kéo dài so với 92 giờ với PIVC có chiều dài tiêu chuẩn (Bahl và cộng sự, 2019).
Việc sử dụng phương pháp đặt dưới hướng dẫn của siêu âm để xác định vị trí tĩnh mạch đã được phát hiện là làm tăng sự thành công của việc đặt ống thông và thời gian dừng, đồng thời giảm các biến chứng liên quan đến việc đặt ống trong một nghiên cứu quan sát, tiền cứu tại một địa điểm trên bệnh nhân trưởng thành tại khoa cấp cứu (Pandurangadu và cộng sự, 2018).
Hơn nữa, một nghiên cứu thiết kế ưu việt lâm sàng của một trung tâm so sánh triển vọng gần đây cho thấy rằng có thể kéo dài thời gian dừng của ống thông bằng cách sử dụng phương pháp bó, nhóm chuyên gia và sử dụng ống thông hướng dẫn bằng siêu âm bằng cẳng tay (Steele và cộng sự, 2019).
Một đánh giá có hệ thống về tài liệu được thực hiện bởi Chopra et al. (2015) để đáp ứng với việc ngày càng sử dụng ống thông trung tâm đặt ngoại vi (PICC) và nhận thấy nguy cơ huyết khối và nhiễm trùng tăng thêm. Một hội thảo quốc tế đã xem xét 665 kịch bản liên quan đến PICC trong tài liệu và đánh giá tính phù hợp của PICC trong từng trường hợp. Sau những phát hiện của nghiên cứu này, sáng kiến ‘Hướng dẫn phù hợp của Michigan cho ống thông tĩnh mạch (MAGIC)’ đã được xuất bản (Chopra và cộng sự, 2015; Woller và cộng sự, 2015). Nghiên cứu kết luận rằng PIVC phù hợp để sử dụng liên tục các loại thuốc ít gây kích ứng, đồng thời cân nhắc sử dụng phương pháp chèn PIVC dưới hướng dẫn siêu âm để xác định vị trí các tĩnh mạch lớn hơn trong thời gian điều trị hơn 5 ngày và tối đa 14 ngày (Chopra và cộng sự, 2015).
Chopra và cộng sự. (2015) cũng phát hiện ra rằng ống thông đường giữa có thể được sử dụng như một lựa chọn thay thế cho quản lý ngoại vi. Ống thông đường giữa thường có chiều dài khoảng 7,5–20 cm và được đưa vào phần trên cánh tay với đầu ống thông không vượt quá tĩnh mạch dưới đòn (Simonov và cộng sự, 2015). Các hướng dẫn dựa trên bằng chứng dựa trên bằng chứng của Hiệp hội Y tá Truyền dịch (INS) nêu rõ rằng đường giữa phù hợp để sử dụng các loại thuốc như thuốc chống vi trùng, thuốc giảm đau và chất lỏng thay thế thường được dung nạp bởi các tĩnh mạch ngoại biên (Gorski và cộng sự, 2016).
Sau bản tóm tắt chuyên sâu về các cân nhắc về mặt giải phẫu, đặc điểm vật lý, ưu điểm và nhược điểm của VAD thường được sử dụng trong môi trường bệnh viện, người ta cho rằng đường giữa mang lại lợi thế hơn PIVC do vị trí nằm trong mạch lớn hơn và dòng chảy nhanh hơn (Simonov và cộng sự, 2015). Hướng dẫn cho thấy sự phù hợp của đường giữa trong thời gian điều trị lên đến 14 ngày (Chopra và cộng sự, 2015) và chúng không nên được sử dụng để sử dụng thuốc gây phồng da, dinh dưỡng cho cha mẹ và dịch truyền có áp suất thẩm thấu > 900 mOsm/L (Gorski và cộng sự, 2016). Thông tin thêm về tính phù hợp của thuốc và lựa chọn thiết bị có trong phần ‘Tính phù hợp của thuốc’ trong Khung VHP 2020. Giống như PIVC dưới hướng dẫn của siêu âm, thời gian dừng ở đường giữa có thể có khả năng kéo dài hơn 14 ngày khi có các biện pháp kiểm soát việc đặt, bảo trì và kiểm tra các biến chứng hàng ngày.
🍀PICC là một ống thông tiếp cận mạch máu được đưa vào cánh tay trên và tiến tới sao cho đầu dò nằm ở tĩnh mạch chủ trên (Gorski và cộng sự, 2016). PICC thường được khuyến nghị điều trị trong vòng sáu ngày đến sáu tháng (Chopra và cộng sự, 2015). Hướng dẫn của MAGIC nêu rõ rằng PICC được ưu tiên hơn đường giữa nếu thời gian điều trị được đề xuất là 15 ngày trở lên ngay cả khi thuốc tương thích với truyền ngoại vi (Chopra và cộng sự, 2015).
🍀Hướng dẫn MAGIC (Chopra và cộng sự, 2015) đề xuất sự phù hợp của các thiết bị truy cập tĩnh mạch trung tâm không có đường hầm (CVAD) để điều trị ngắn hạn lên đến 14 ngày liên quan đến các loại thuốc và dung dịch không phù hợp cho quản lý ngoại vi. CVAD không có đường hầm thường được đặt vào tĩnh mạch cảnh trong hoặc tĩnh mạch dưới đòn nhưng cũng có thể được đặt vào tĩnh mạch đùi với đầu ống thông nằm ở tĩnh mạch chủ trên.
Theo các hướng dẫn dựa trên bằng chứng do Hiệp hội Bác sĩ gây mê Vương quốc Anh và Ireland phát triển, CVAD không có đường hầm thích hợp hơn PICC khi cần số lượng lumen lớn hơn so với PICC, chẳng hạn như ở những bệnh nhân được chăm sóc tích cực (Bodenham và cộng sự, 2016).
Không tìm thấy bằng chứng mới nào liên quan đến thời gian điều trị khi lựa chọn VAD dài hạn, bao gồm CVAD đường hầm và thiết bị tiếp cận mạch máu cấy ghép toàn bộ (TIVAD). CVAD có đường hầm được phẫu thuật đặt với một đường hầm dưới da trước khi đi vào tĩnh mạch trung tâm với một vòng bít được gắn vào mô để tăng cường bảo vệ khỏi nhiễm trùng liên quan đến ống thông (RCN, 2016). TIVAD được đào hầm bên dưới da và có một cổng dưới da được tiếp cận bằng kim và thích hợp để điều trị lâu dài ở những nơi hiếm khi tiếp cận được (Loveday và cộng sự, 2014). Hướng dẫn lựa chọn VAD dài hạn vẫn giữ nguyên và nên được chọn cho những bệnh nhân cần điều trị bằng đường tĩnh mạch lâu hơn 4 tháng (Loveday và cộng sự, 2014).
Ngoài việc đánh giá thời gian điều trị và mức độ phù hợp của thuốc, có một số yếu tố cần được xem xét để hỗ trợ việc lựa chọn thiết bị ở từng bệnh nhân (Gorski và cộng sự, 2016; Hallam và cộng sự, 2016). Lợi ích về rủi ro của việc lựa chọn thiết bị riêng lẻ đang bắt đầu bị thách thức trong các thử nghiệm lâm sàng lớn, với một thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên trên bệnh nhân ung thư cho thấy TIVAD có thể liên quan đến ít tác dụng phụ hơn PICC và cần được xem xét đặc biệt ở những bệnh nhân có khối u rắn, cho thấy rằng Khung VHP 2020 có thể yêu cầu điều chỉnh cho các nhóm bệnh nhân cụ thể (Taxbro và cộng sự, 2019).
Hình 2 cho thấy thuật toán quyết định đường truyền tĩnh mạch
🌏Đánh giá hàng ngày
Đánh giá và quan sát trực quan tất cả các VAD là điều cần thiết để phát hiện sớm các biến chứng của VAD (Gorski và cộng sự, 2016). Khung cập nhật xem xét công cụ I-DECIDED, được phát triển từ hướng dẫn tiếp cận mạch máu quốc tế thành một công cụ ghi nhớ có cấu trúc để đánh giá và ra quyết định thiết bị nhằm nhanh chóng loại bỏ PIVC kịp thời và phát hiện sớm các biến chứng (Ray-Barruel và cộng sự, 2018).
🍀Công cụ I-DECIDED đã được xác nhận bởi một nhóm chuyên gia truy cập mạch máu quốc tế thông qua một cuộc khảo sát trực tuyến, sau đó là nghiên cứu về độ tin cậy giữa các người đánh giá trên các khoa dành cho người lớn ở ba bệnh viện Úc đã chứng minh độ tin cậy ở mức độ cao (Ray-Barruel và cộng sự, 2020).
Công cụ I-DECIDED coi cơn đau là chỉ báo về các biến chứng tiềm ẩn khi cơn đau được báo cáo là ⩾ 2 trên điểm 10; điều này đã được đưa vào phần đánh giá của VHP 2020. Các biến chứng hoặc vấn đề về chức năng của thiết bị có thể cho thấy rằng đây không phải là thiết bị thích hợp nhất để cung cấp phương pháp điều trị dự định cho bệnh nhân; do đó, phần đánh giá hỗ trợ việc đánh giá xem liệu VAD có còn phù hợp hay không và nếu không, sẽ đưa ra nhu cầu áp dụng lại công cụ quyết định VHP.
Phần đánh giá của VHP 2020 đã được sửa đổi, bắt đầu bằng câu hỏi đơn giản ‘Bệnh nhân có còn cần điều trị qua đường tĩnh mạch không?’ và xem xét ‘Thiết bị đã được sử dụng trong 24 giờ qua hay có khả năng sẽ không được sử dụng trong 24 giờ tới?’ nhằm mục đích nhắc nhở loại bỏ kịp thời. Các câu hỏi sau đây để đánh giá VAD đã được đơn giản hóa trong Khung VHP 2020 như dưới đây.
Có vấn đề với hoạt động của thiết bị?
Có bất kỳ biến chứng nào hiện tại không?
Thay băng và an toàn: có biến chứng không?
Hình 3 thể hiện công cụ đánh giá hàng ngày.
🌏Hạn chế của Khung VHP 2020 của Vương quốc Anh
Phải thừa nhận rằng cả khung VHP ban đầu của Vương quốc Anh và khung VHP 2020 được cập nhật đều không bao gồm các kỹ thuật chèn kết hợp lựa chọn vị trí cho PIVC hoặc lựa chọn thiết bị bao gồm kích thước thước đo hoặc số lumen cho CVAD.
Tuy nhiên, điều quan trọng là phải thừa nhận những cân nhắc thực tế sau đây:
🍀PIVC cũng nên được lựa chọn bằng cách sử dụng thước đo nhỏ nhất phù hợp với liệu pháp được chỉ định và nhu cầu của bệnh nhân, lý tưởng là 20–24 G (Gorski và cộng sự, 2016).
🍀VAD chứa hơn 1/3 mạch máu sẽ làm giảm lưu lượng máu và tăng nguy cơ hình thành huyết khối (Sharp và cộng sự, 2016).
🍀Việc đặt PIVC phải tránh các vùng bị uốn cong nếu có thể (RCN, 2016), ví dụ như hố trước khuỷu tay. Khi dành đủ thời gian để đặt PIVC cách xa khớp và chuyển động sẽ dẫn đến tỷ lệ biến chứng thấp hơn (Marsh và cộng sự, 2017).
🍀Việc lựa chọn CVAD nên xem xét số lượng cổng hoặc lumen tối thiểu cần thiết để quản lý bệnh nhân (Loveday và cộng sự, 2014).
🍀Cần tuân thủ hướng dẫn chính sách địa phương để chèn tất cả các PIVC, đường giữa và CVAD.
Ngoài ra, Khung VHP 2020 sửa đổi của Vương quốc Anh dành cho việc tiếp cận mạch máu ở người lớn trong các tình huống cấp tính hoặc theo kế hoạch. Mặc dù các nguyên tắc của VHP nên được đưa vào mọi tình huống khẩn cấp, nhưng người ta nhận thấy rằng các vấn đề khác có thể được ưu tiên tùy thuộc vào tình trạng của bệnh nhân và khả năng chuyên môn về tiếp cận mạch máu sẵn có; do đó, các đường tiếp cận tức thời khác có thể phù hợp hơn, ví dụ như đường tiếp cận trong xương.
🌏Hạn chế của Khung VHP 2020 của Vương quốc Anh
Phải thừa nhận rằng cả khung VHP ban đầu của Vương quốc Anh và khung VHP 2020 được cập nhật đều không bao gồm các kỹ thuật chèn kết hợp lựa chọn vị trí cho PIVC hoặc lựa chọn thiết bị bao gồm kích thước thước đo hoặc số lumen cho CVAD. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải thừa nhận những cân nhắc thực tế sau đây:
PIVC cũng nên được lựa chọn bằng cách sử dụng thước đo nhỏ nhất phù hợp với liệu pháp được chỉ định và nhu cầu của bệnh nhân, lý tưởng là 20–24 G (Gorski và cộng sự, 2016).
VAD chứa hơn 1/3 mạch máu sẽ làm giảm lưu lượng máu và tăng nguy cơ hình thành huyết khối (Sharp và cộng sự, 2016).
Việc đặt PIVC phải tránh các vùng bị uốn cong nếu có thể (RCN, 2016), ví dụ như hố trước khuỷu tay. Khi dành đủ thời gian để đặt PIVC cách xa khớp và chuyển động sẽ dẫn đến tỷ lệ biến chứng thấp hơn (Marsh và cộng sự, 2017).
Việc lựa chọn CVAD nên xem xét số lượng cổng hoặc lumen tối thiểu cần thiết để quản lý bệnh nhân (Loveday và cộng sự, 2014).
Cần tuân thủ hướng dẫn chính sách địa phương để chèn tất cả các PIVC, đường giữa và CVAD.
Ngoài ra, Khung VHP 2020 sửa đổi của Vương quốc Anh dành cho việc tiếp cận mạch máu ở người lớn trong các tình huống cấp tính hoặc theo kế hoạch. Mặc dù các nguyên tắc của VHP nên được đưa vào mọi tình huống khẩn cấp, nhưng người ta nhận thấy rằng các vấn đề khác có thể được ưu tiên tùy thuộc vào tình trạng của bệnh nhân và khả năng chuyên môn về tiếp cận mạch máu sẵn có; do đó, các đường tiếp cận tức thời khác có thể phù hợp hơn, ví dụ như đường tiếp cận trong xương.
Phần kết luận
Khung VHP của Vương quốc Anh năm 2016 yêu cầu cập nhật để duy trì tính phù hợp và tiếp tục cung cấp cho các nhóm IV và nhân viên tuyến đầu thông tin và công cụ để đánh giá VAD phù hợp và kịp thời, cũng như duy trì và đánh giá liên tục. Bản cập nhật bao gồm những thay đổi đối với tất cả các phần, kết hợp bằng chứng từ 12 nghiên cứu. Nó đã được IPS, NIVAS và Medusa xem xét và phê duyệt với sự chứng thực của RCN cũng như được chia sẻ với các chuyên gia tiếp cận mạch máu ở cả Vương quốc Anh và Hoa Kỳ. Việc sử dụng Khung VHP 2020 của Vương quốc Anh để hỗ trợ việc ra quyết định và đảm bảo rằng VAD phù hợp nhất được triển khai tại chỗ cùng với việc đánh giá hàng ngày sẽ giúp giảm thiểu rủi ro liên quan đến các thiết bị tiếp cận mạch máu. Khung VHP của Vương quốc Anh là một công cụ trực tiếp và sẽ tiếp tục được cập nhật khi có bằng chứng mới.
Nguồn
Hallam, C., Denton, A., Weston, V., Dunn, H., Jackson, T., Keeling, S., & Hill, S. (2021). UK Vessel Health and Preservation (VHP) Framework: a commentary on the updated VHP 2020. Journal of infection prevention, 22(4), 147–155. https://doi.org/10.1177/1757177420976806