Nguyên tắc cam đoan đồng ý có thông tin trong chăm sóc y tế

Tin tức

Nguyên tắc cam đoan đồng ý có thông tin trong chăm sóc y tế

Nhiều bác sĩ coi quy trình cam đoan đồng ý có thông tin trong chăm sóc y tế là phiền toái và cản trở. Thông thường, đây chỉ là một vòng lặp nữa để bệnh nhân có thể nhận được sự chăm sóc cần thiết.

Điều này không đúng.

Nếu BS đã sơ suất trong việc cung cấp dịch vụ và kết quả không tốt đã xảy ra, bệnh nhân có lý do để hành động vì hành nghề y không đúng.

Nếu BS không sơ suất nhưng kết quả không tốt vẫn xảy ra, bệnh nhân có thể có lý do để hành động nếu BS không tiết lộ rủi ro về kết quả không tốt (biến chứng) trước thời hạn.

Đây là lúc cam đoan đồng ý có thông tin trong chăm sóc y tế phát huy tác dụng; nếu bệnh nhân biết về rủi ro biến chứng và đồng ý thực hiện thủ thuật này, bệnh nhân không được phép khiếu nại sau đó.

Sự cam đoan đồng ý có thông tin trong chăm sóc y tế có thể miễn trừ cho NVYT khỏi trách nhiệm đối với biến chứng đã biết xảy ra khi không có sự sơ suất.

🍀Có sự khác biệt giữa cam đoan đồng thuận chung và cam đoan đồng ý có thông tin trong chăm sóc y tế.

📜Cần phải có sự đồng thuận chung trước khi bệnh nhân có thể được khám hoặc điều trị hoặc trước khi có thể thực hiện các xét nghiệm nhỏ (như xét nghiệm trong phòng thí nghiệm hoặc các nghiên cứu hình ảnh thường quy). Không cần giải thích về việc tiếp xúc, nhưng cần phải có sự đồng ý chạm vào bệnh nhân.

📜Cần phải có sự cam đoan đồng ý có thông tin trong chăm sóc y tế của bệnh nhân (nói chung) trước khi có thể thực hiện một thủ thuật xâm lấn có nguy cơ gây hại đáng kể. Luật của địa phương khác nhau về các chi tiết yêu cầu về thời điểm cần có sự đồng ý có thông tin, nhưng những điều nêu trên là quy tắc chung.

[i] Các thủ thuật xâm lấn có thể bao gồm bất kỳ điều gì từ điều trị tủy răng đến phẫu thuật lớn. Nếu cần có sự đồng ý có thông tin của bệnh nhân, BS phải thảo luận về các rủi ro và lợi ích cũng như các phương án thay thế cho thủ thuật được đề xuất.

Việc xác định những gì cấu thành rủi ro gây hại đáng kể được chia thành hai loại riêng biệt:

Trong trường hợp bệnh nhân hợp lý, câu hỏi là: “Một bệnh nhân hợp lý muốn biết những gì về rủi ro của thủ thuật trước khi đồng ý thực hiện thủ thuật đó?”

Trong trường học về BS hợp lý, câu hỏi đặt ra là: “BS sẽ tiết lộ những rủi ro nào cho bệnh nhân trong cùng hoàn cảnh hoặc hoàn cảnh tương tự?”

Điều quan trọng là BS phải hiểu luật pháp tại khu vực pháp lý của họ liên quan đến các nguyên tắc về sự đồng ý có thông tin đầy đủ.

Theo nguyên tắc chung, rủi ro của quy trình không bao gồm rủi ro BS có thể sơ suất khi thực hiện quy trình. Do đó, việc tiết lộ tiền sử hoặc hiện tại lạm dụng chất gây nghiện, hành động kỷ luật đối với việc cấp phép, tỷ lệ thất bại với quy trình, v.v., thường không bắt buộc để có được sự đồng ý có thông tin đầy đủ của bệnh nhân, mặc dù điều này cũng có thể khác nhau tùy theo luật của tiểu bang. Như đã lưu ý, nếu BS thực hiện quy trình một cách sơ suất, bệnh nhân có thể kiện vì hành vi sai trái trong y khoa. Bệnh nhân không thể từ bỏ quyền kiện trước khi hành vi sơ suất xảy ra.

Sự cam đoan đồng ý có thông tin trong chăm sóc y tế đầy đủ, khi được thực hiện đúng cách, có thể là lá chắn vững chắc chống lại trách nhiệm pháp lý. Các BS thực hiện các quy trình có nguy cơ gây hại đáng kể nên cân nhắc kỹ lưỡng và thảo luận kỹ lưỡng với bệnh nhân.

Các BS phải nhận ra rằng quá trình này đòi hỏi phải có sự thống nhất về các rủi ro, lợi ích và phương án thay thế cho quy trình; nó không chỉ đơn thuần là việc ký vào một tờ giấy.

Nguồn

https://blog.thesullivangroup.com/rsqsolutions/principles-of-informed-consent-in-healthcare

 

Leave A Comment