Mức độ định biên điều dưỡng, kinh nghiệm làm việc và nguy cơ nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc y tế ở bệnh nhân nằm viện : Một nghiên cứu liên kết tiến cứu
Tác giả Peutere, Laura và cộng sự
Medical Care 61(5):p 279-287, May 2023. | DOI: 10.1097/MLR.0000000000001843
Các nghiên cứu theo chiều dọc đã liên tục chỉ ra rằng việc chăm sóc với tình trạng thiếu nhân lực ĐD có liên quan đến việc tăng nguy cơ tử vong ở bệnh nhân tại bệnh viện. Một hậu quả bất lợi nghiêm trọng khác của việc thiếu ĐD đối với bệnh nhân là các bệnh nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc y tế (HAI), với tỷ lệ phổ biến là 7% ở các bệnh nhân tại Các bệnh viện ở Châu Âu và 4% ở các cơ sở chăm sóc dài hạn.
📌Kinh nghiệm làm việc hạn chế của các ĐD cũng có thể là một yếu tố rủi ro đối với sự an toàn của bệnh nhân. Rủi ro đối với bệnh nhân có thể trở nên trầm trọng hơn nếu thiếu nhân lực kết hợp với kinh nghiệm làm việc hạn chế của nhân viên điều dưỡng, vì có thể cần có nhiều kinh nghiệm làm việc hơn để ưu tiên các nhiệm vụ quan trọng trong bối cảnh khối lượng công việc quá lớn.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu về chủ đề này cho thấy kết quả không nhất quán. Ví dụ: mức độ trải nghiệm thấp hơn có liên quan đến nguy cơ té ngã cao hơn và thấp hơn ở các bệnh nhân và chủ yếu không liên quan đến HAI
Việc thiếu nhân lực chăm sóc có thể gây ra một số hậu quả bất lợi cho bệnh nhân trong bệnh viện, chẳng hạn như nhiễm trùng liên quan đến chăm sóc y tế (HAI), nhưng có rất ít bằng chứng theo chiều dọc về mức độ định biên nhân lực và HAI khi xem xét thời gian ủ bệnh để xác nhận điều này.
Sử dụng dữ liệu theo chiều dọc hàng ngày, các tác giả đã phân tích mối liên hệ tạm thời giữa tình trạng thiếu nhân lực điều dưỡng, thiếu kinh nghiệm làm việc và nguy cơ mắc HAI.
🍀Phương pháp:
Nghiên cứu dựa trên dữ liệu của 40 đơn vị và 261.067 lượt điều trị nội trú tại một khu bệnh viện ở Phần Lan trong năm 2013–2019.
Các phân tích sống sót với các cửa sổ thời gian di chuyển đã được sử dụng để kiểm tra mối liên hệ giữa việc thiếu nhân lực ĐD và thiếu kinh nghiệm làm việc với nguy cơ mắc HAI 2 ngày sau khi phơi nhiễm, điều chỉnh các yếu tố rủi ro riêng lẻ.l, với tỷ lệ rủi ro (HR) với 95% CI.
🌼Đo lường
Thiếu nhân lực và kinh nghiệm làm việc hạn chế của ĐD
Các tác giả đo lường mức độ tiếp xúc với tình trạng thiếu nhân lực chăm sóc và kinh nghiệm làm việc hạn chế bằng cách sử dụng 4 chỉ số dựa trên số giờ làm việc của ĐD có CCHN và ĐD thực hành. Theo thiết kế của Needleman và cộng sự và các nghiên cứu trước đây, mục đích của nghiên cứu này là xác định những ngày có số lượng ĐD thấp. Chỉ số đầu tiên được tính bằng cách chia số giờ điều dưỡng thực tế cho số giờ điều dưỡng theo kế hoạch cho mỗi đơn vị ngày, không bao gồm số ngày đơn vị không có số giờ dự kiến hoặc số giờ thực tế bằng 0. Thông tin về cả số giờ thực tế và số giờ dự kiến của mỗi ca đều được ghi lại cho ngày dương lịch theo ngày bắt đầu ca. Họ đã phân loại số ngày chăm sóc mà tỷ lệ này <90% mức trung bình của đơn vị hàng năm là có số giờ điều dưỡng thấp so với số giờ dự kiến. Để nghiên cứu tính chắc chắn của các phát hiện, các tác giả đã lặp lại các phân tích chính bằng cách sử dụng ngưỡng cắt thấp hơn thay thế là 85% và ngưỡng cắt thay thế cao hơn là 95% trong các phân tích độ nhạy.
Chỉ số thứ hai được tính bằng cách chia tổng số giờ điều dưỡng cho từng đơn vị và ngày dương lịch cho số ngày của bệnh nhân (1 ngày bệnh nhân tương ứng với 24 giờ của một bệnh nhân trong một đơn vị). Số giờ điều dưỡng được tính dựa trên thời điểm bắt đầu và thời gian kết thúc của mỗi ca thực tế, số ngày bệnh nhân được tính toán dựa trên thời gian bắt đầu và kết thúc của mỗi lần nhập viện và thăm khám ngoại trú.
Giờ điều trị nội trú là chính xác nhưng thời gian kết thúc của các lần thăm khám ngoại trú chỉ là ước chừng vì bệnh nhân ngoại trú có thể được khám theo nhóm vào những thời điểm cụ thể hoặc các lần thăm khám có thể được tự động ghi lại để kết thúc lúc 12 giờ trưa nếu trước đó chưa đóng cửa. Hầu hết các chuyến thăm khám ngoại trú được ghi nhận là kết thúc trong khoảng thời gian từ 5 giờ chiều đến 12 giờ trưa, cho thấy số giờ khám ngoại trú tại đơn vị có thể đã được đánh giá quá cao.
Để giảm bất kỳ sai lệch nào do các bản ghi sai lệch, nhóm NC đã xác định các giá trị ngoại lệ trong thước đo “số giờ điều dưỡng mỗi ngày của bệnh nhân” bằng phương pháp Tukey boxplot xác định trước. Họ đã loại trừ 5,5% số ngày đơn vị trong đó số giờ điều dưỡng mỗi ngày của bệnh nhân là đặc biệt thấp hoặc cao, nghĩa là thấp hơn phân vị 25% đơn vị hàng năm trừ đi 1,5 lần phạm vi liên tứ phân vị đơn vị hàng năm hoặc cao hơn phân vị 75% cộng với 1,5 lần phạm vi liên tứ phân vị. Các tác giả đã phân loại những ngày mà số giờ điều dưỡng mỗi ngày của bệnh nhân <80% so với mức trung bình hàng năm của đơn vị do có ít nhân viên và sử dụng các điểm giới hạn thay thế là 75% và 85% trong phân tích độ nhạy.
Thứ ba, thiếu kinh nghiệm của ĐD dựa trên tỷ lệ ĐD có >3 năm kinh nghiệm làm việc trong mỗi đơn vị ngày, dựa trên số năm theo lịch mà họ có số giờ làm việc khác 0 tại khu vực bệnh viện, chẳng hạn, không bao gồm số năm hợp đồng mà nhân viên làm việc. Chỉ số thứ tư dựa trên tỷ lệ y tá trên 25 tuổi trong mỗi đơn vị ngày. Các tác giả đã phân loại số ngày làm việc trong đó tỷ lệ NV có >3 năm kinh nghiệm tại bệnh viện và trên 25 tuổi là <90% mức trung bình hàng năm của đơn vị là có kinh nghiệm hạn chế. Họ đã sử dụng các điểm cắt thấp hơn và cao hơn thay thế là 85% và 95% trong phân tích độ nhạy.
📝Kết quả:
📌Dữ liệu bao gồm 261.067 lượt nhập viện nội trú.
Một nửa số bệnh nhân nội trú là nam giới, 74,5% ở độ tuổi 51–90 và 74,1% không có bệnh đi kèm theo Chỉ số bệnh đi kèm Charlson.
Tổng cộng, 4,6% bệnh nhân nội trú mắc bệnh tiểu đường, trong khi tỷ lệ mắc bệnh của tất cả các chẩn đoán khác thấp hơn. Các thủ thuật phổ biến nhất là phẫu thuật (18,5%) và tiểu phẫu (7,1%).
📌Bệnh nhân nội trú mắc HAI có nhiều khả năng là nam giới, lớn tuổi hơn, mắc các bệnh đi kèm theo chỉ số Charlson, u lympho, bệnh bạch cầu hoặc u tủy, cấy ghép, phẫu thuật hoặc phẫu thuật nhỏ hoặc điều trị trong ICU.
📌Độ dài trung bình của thời gian theo dõi (từ ngày thứ ba của giai đoạn nhập viện cho đến khi kết thúc giai đoạn 2 ngày sau xuất viện) là 4,4 ngày, trong đó 1,4% (n=3754) kết thúc bằng HAI. Các bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất là đường hô hấp (27,4%), đường tiết niệu (20,5%), nhiễm trùng huyết và nhiễm trùng máu (13,7%), nhiễm trùng tại chỗ phẫu thuật và cơ thể cụ thể (14,9%).
📌Trung bình, 95,7% số giờ điều dưỡng hàng ngày theo kế hoạch đã được thực hiện và số giờ điều dưỡng trung bình mỗi ngày của bệnh nhân là 6,6.
Tỷ lệ trung bình điều dưỡng có >3 năm kinh nghiệm làm việc tại bệnh viện là 79,2% và tỷ lệ trung bình điều dưỡng trên 25 tuổi là 91,3%.
Tổng cộng, số giờ điều dưỡng thấp so với số giờ dự kiến trong 10,3% số ngày và trên 16,7% số đơn vị ngày, số giờ điều dưỡng mỗi ngày của bệnh nhân thấp (Bảng 2).
Tỷ lệ trung bình số ngày có tỷ lệ ĐD có >3 năm kinh nghiệm làm việc tại bệnh viện thấp là 19,3% và tỷ lệ số ngày có tỷ lệ ĐD trên 25 tuổi thấp là 10,8%.
📌Việc tiếp xúc trong một hoặc 2 ngày với tình trạng thiếu nhân lực ĐD hoặc kinh nghiệm làm việc hạn chế không liên quan đến tỷ lệ mắc HAI tổng thể (Bảng 3).
Tuy nhiên, những bệnh nhân được tiếp xúc, chăm sóc bởi nhân lực có kinh nghiệm làm việc hạn chế có nguy cơ nhiễm trùng máu cao hơn so với những bệnh nhân không tiếp xúc. Về tiếp xúc trong 1 và 2 ngày với tỷ lệ thấp ĐD có >3 năm kinh nghiệm điều trị tại bệnh viện, tỷ lệ nguy cơ (HR) là 1,30 (KTC 95%: 1,04–1,62) và 1,40 (KTC 95%: 1,05– 1,86), tương ứng.
Xem xét việc tiếp xúc trong 1 ngày với tỷ lệ thấp các ĐD trên 25 tuổi, HR là 1,40 (KTC 95%: 1,07–1,83), trong khi tiếp xúc trong 2 ngày không đạt được ý nghĩa thống kê (HR=1,23, KTC 95% : 0,83–1,82). Tiếp xúc một ngày cũng liên quan đến nguy cơ viêm phổi thấp hơn (HR=0,70, KTC 95%: 0,51–0,97).
Ngược lại, việc thiếu nhân lực ĐD được đo bằng số giờ điều dưỡng thấp so với số giờ mục tiêu có liên quan đến việc tăng nguy cơ nhiễm trùng tại chỗ phẫu thuật. Liên quan đến tiếp xúc trong 1 ngày, HR là 1,34 (KTC 95%: 0,97–1,85), nhưng chỉ có ý nghĩa thống kê khi được đánh giá với phơi nhiễm trong 2 ngày (HR=2,64, KTC 95%: 1,66–4,20).
Kết quả không nhất quán, bằng chứng này cho thấy tình trạng thiếu nhân viên điều dưỡng và thiếu ĐD có kinh nghiệm tại các đơn vị bệnh viện không phải lúc nào cũng làm tăng HAI ở bệnh nhân.
Những yếu tố này chỉ liên quan đến nguy cơ nhiễm trùng vết mổ và nhiễm trùng máu cao hơn.
Nhân sự ĐD và trình độ kinh nghiệm cũng có mối liên hệ với nhau, vì thiếu nhân lực có thể làm tăng căng thẳng trong công việc và tăng nghỉ việc trong bệnh viện.
Nếu bạn thích bài đăng này, vui lòng giúp chúng tôi và chia sẻ trên Zalo, LinkedIn, Twitter, Facebook, v.v.. Ngoài ra, có thể theo dõi trang www.thuvienykhoa.com.vn để đọc thêm các nội dung bổ ích khác.
Chân thành cảm ơn!
Ban Biên Tập