NEJM – Giảm leo thang phẫu thuật vú: Ít can thiệp liệu có lợi ích hơn
William J. Gradishar, MD, đánh giá Reimer T và cộng sự N Engl J Med 12 tháng 12 năm 2024
Bệnh nhân ung thư vú giai đoạn đầu có khối u ER dương tính và nách âm tính về mặt lâm sàng có thể bỏ qua sinh thiết hạch bạch huyết lính gác mà không có hậu quả tiêu cực.
Quản lý phẫu thuật ung thư vú giai đoạn đầu đã phát triển trong hai thập kỷ qua theo hướng giảm leo thang. Các ca phẫu thuật đã trở nên ít mở rộng hơn và câu hỏi liệu có cần can thiệp phẫu thuật nào cho nách hay không vẫn còn bỏ ngỏ để tranh luận.
Trong thử nghiệm INSEMA có triển vọng, không kém hơn, những phụ nữ có khối u giai đoạn lâm sàng T1 hoặc T2, bệnh âm tính với hạch nách (cả bằng khám và hình ảnh siêu âm) và có kế hoạch phẫu thuật bảo tồn vú đã được phân ngẫu nhiên (1:4) vào nhóm điều trị không phẫu thuật nách hoặc sinh thiết hạch bạch huyết lính gác (sentinel lymph node biopsy SLNB).
Bệnh nhân trải qua phẫu thuật SLNB được phát hiện có 1 đến 3 di căn vĩ mô được phân nhóm ngẫu nhiên để hoàn thành phẫu thuật cắt bỏ hạch nách hoặc không phẫu thuật hạch nách nữa (dữ liệu chưa hoàn thiện).
Trong số 4,858 bệnh nhân theo phác đồ, 90% có khối u giai đoạn lâm sàng T1 và 79% đã được phẫu thuật xác nhận là khối u T1 bệnh lý. Khoảng 98% khối u dương tính với ER và chỉ 3,6% dương tính với HER2.
Liệu pháp bổ trợ sau phẫu thuật tương tự nhau giữa các nhóm, ngoại trừ nhóm phẫu thuật có nhiều bệnh nhân được hóa trị hơn một chút.
Với thời gian theo dõi trung bình là 73,6 tháng, việc loại bỏ SLNB không kém gì phẫu thuật đối với điểm cuối chính là tỷ lệ sống sót không có bệnh xâm lấn trong 5 năm (91,9% và 91,7%).
Tỷ lệ tái phát hạch nách lần lượt là 1,0% so với 0,3% và tỷ lệ tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào là 1,4% so với 2,4%.
Không có gì ngạc nhiên khi những bệnh nhân không trải qua SLNB ít bị phù/đau cánh tay hơn và khả năng vận động cánh tay/vai tốt hơn.
BÌNH LUẬN
Nghiên cứu INSEMA, cùng với các phát hiện từ các thử nghiệm khác, khẳng định rằng SLNB có thể tránh được mà không ảnh hưởng đến khả năng tái phát tại chỗ hoặc khả năng sống sót ở những bệnh nhân có khối u lâm sàng T1/T2, ER dương tính và nách âm tính về mặt lâm sàng. Vì hồ sơ này phù hợp với một nhóm lớn bệnh nhân ung thư vú giai đoạn đầu, nên việc áp dụng những phát hiện này sẽ dẫn đến việc giảm dần quá trình điều trị, giảm tỷ lệ mắc bệnh liên quan đến liệu pháp và không ảnh hưởng đến kết quả.
Trich Reimer T et al. Axillary surgery in breast cancer — Primary results of the INSEMA trial. N Engl J Med 2024 Dec 12; [e-pub]. (https://doi.org/10.1056/NEJMoa2412063)