Springer – Thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên về việc nghe nhạc kết hợp với thư giãn cơ để kiểm soát tâm trạng ở phụ nữ đang hóa trị ung thư
Tác giả Khanh Thi Nguyen, Dorothy N. S. Chan, Ankie Tan Cheung, Huong Thi Xuan Hoang, Anh Tuan Truong, Ka Ming Chow, Kai Chow Choi & Carmen W. H. Chan
The Nethersole School of Nursing, The Chinese University of Hong Kong, Hong Kong SAR, China
Xuất bản: 04 tháng 3 năm 2025
Giới thiệu
Ung thư vú và ung thư phụ khoa là loại ung thư phổ biến nhất ảnh hưởng đến phụ nữ trên toàn thế giới. Vào năm 2020, có khoảng 3,7 triệu ca ung thư vú và ung thư phụ khoa mới được báo cáo, chiếm khoảng 40% tổng số ca ung thư mới mắc ở phụ nữ trên toàn thế giới. So với những phụ nữ mắc các loại ung thư khác, những người mắc ung thư vú và ung thư phụ khoa có thể có thêm trạng thái tâm trạng tiêu cực với những thay đổi về hình ảnh cơ thể và sức khỏe tình dục. Hơn nữa, phần lớn phụ nữ mắc ung thư vú và ung thư phụ khoa được điều trị bằng hóa trị để ức chế sự tăng sinh tế bào ung thư và khối u nhân lên. Mặc dù hóa trị không thể phủ nhận có lợi cho bệnh nhân về mặt cải thiện kết quả lâm sàng, nhưng nó cũng gây ra nhiều tác dụng phụ, chẳng hạn như mệt mỏi, ảnh hưởng đến thần kinh và buồn nôn, gây ảnh hưởng bất lợi đến rối loạn tâm trạng của bệnh nhân. Khoảng 26,9% bệnh nhân ung thư vú trải qua hóa trị liệu gặp phải tình trạng lo lắng, trong khi khoảng 41,55% trong số họ phải đối mặt với chứng trầm cảm và tỷ lệ này cao hơn nhiều ở những bệnh nhân ung thư phụ khoa (ví dụ: ung thư cổ tử cung), lần lượt là 52,2% và 65,6%
Theo mô hình trao đổi về căng thẳng và đối phó, các chiến lược đối phó tập trung vào vấn đề và/hoặc cảm xúc đã được lựa chọn để xử lý tình huống căng thẳng. Đối phó tập trung vào vấn đề là một quá trình tập trung vào việc thay đổi vấn đề; đó là nỗ lực giải quyết trực tiếp nguồn gốc của căng thẳng, trong khi đối phó tập trung vào cảm xúc tập trung vào việc quản lý cảm xúc khi vấn đề không thể thay đổi. Là một hình thức đối phó tập trung vào cảm xúc chức năng, can thiệp âm nhạc đã phát triển để giải quyết nhu cầu ngày càng tăng về việc cung cấp liệu pháp quản lý căng thẳng hiệu quả cho bệnh nhân ung thư đang hóa trị liệu.
Can thiệp âm nhạc có thể được phân loại là liệu pháp âm nhạc hoặc y học âm nhạc, dựa trên trình độ của người can thiệp và bản chất của mối quan hệ điều trị được thiết lập. Trong liệu pháp âm nhạc, mối quan hệ trị liệu giữa các nhà trị liệu âm nhạc được đào tạo và khách hàng là điều cần thiết, cho phép cá nhân hóa các chiến lược khác nhau, chẳng hạn như nghe nhạc tích cực, sáng tác nhạc và phân tích lời bài hát để cải thiện kết quả sức khỏe. Ngược lại, y học âm nhạc thường liên quan đến việc nghe nhạc thụ động, trong đó các chuyên gia y tế cung cấp nhạc được ghi âm trước cho bệnh nhân mà không có quy trình trị liệu có cấu trúc. Mặc dù các nghiên cứu trước đây đã nhấn mạnh tầm quan trọng của vai trò của nhà trị liệu và mối quan hệ trị liệu, bằng chứng gần đây không tìm thấy sự khác biệt đáng kể nào về hiệu quả của liệu pháp âm nhạc so với y học âm nhạc trong việc giảm lo âu ở những bệnh nhân ung thư đang hóa trị. Nghiên cứu về việc nghe nhạc thụ động đã xác định một phương pháp hiệu quả để giảm lo âu liên quan đến căng thẳng ở những bệnh nhân ung thư vú đang hóa trị.
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra tác dụng tăng cường tiềm tàng của can thiệp âm nhạc đối với việc quản lý tâm trạng khi kết hợp với các can thiệp không dùng thuốc khác, chẳng hạn như thư giãn cơ tiến triển, giảm căng thẳng dựa trên chánh niệm và hình ảnh.
Trong các nghiên cứu nêu trên, can thiệp bằng âm nhạc kết hợp với giãn cơ tiến triển sử dụng phương pháp nghe nhạc thụ động (y học âm nhạc), trong khi các can thiệp kết hợp khác sử dụng liệu pháp âm nhạc. Nghe nhạc thụ động kết hợp với giãn cơ tiến triển (Passive music listening combined with progressive muscle relaxation PML-PMR) được phát hiện có tác động đáng kể đến lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân nữ bị ung thư vú sau phẫu thuật cắt bỏ vú toàn bộ. Hơn nữa, PML-PMR dẫn đến giảm mức độ trầm cảm nhiều hơn ở bệnh nhân ung thư, so với chỉ sử dụng giãn cơ tiến triển [32].
Mặc dù một số chương trình quản lý căng thẳng thành công sử dụng phương pháp nghe nhạc thụ động hoặc giãn cơ tiến triển, nhưng không có nghiên cứu nào trước đây tập trung vào PML-PMR liên quan đến bệnh nhân ung thư vú và ung thư phụ khoa đang được hóa trị. Mục tiêu của nghiên cứu này là kiểm tra tác động của PML-PMR đối với lo âu, trầm cảm, căng thẳng, khả năng đối phó và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân và đánh giá quá trình thực hiện để cung cấp thông tin cần thiết cho nghiên cứu và thực hành sâu hơn.
Mục đích
Đánh giá tác động của việc nghe nhạc thụ động kết hợp với giãn cơ tiến triển đối với chứng lo âu, trầm cảm, căng thẳng, khả năng ứng phó và chất lượng cuộc sống ở những phụ nữ mắc ung thư vú và ung thư phụ khoa đang được hóa trị.
Phương pháp
Đây là thử nghiệm có đối chứng danh sách chờ ngẫu nhiên, không phân biệt người đánh giá. Tổng cộng 120 người tham gia được phân bổ ngẫu nhiên vào một nhóm can thiệp hoặc một nhóm đối chứng danh sách chờ.
Nhóm can thiệp được can thiệp bao gồm đào tạo về nghe nhạc thụ động và giãn cơ tiến triển, với việc tự thực hành một lần mỗi ngày tại nhà trong 3 tuần.
Nhóm đối chứng danh sách chờ được can thiệp tương tự sau khi đánh giá kết quả vào tuần thứ 6. Tất cả dữ liệu về kết quả được thu thập trước (T0) và 3 tuần (T1), 6 tuần (T2) và 12 tháng (T3) sau khi phân nhóm ngẫu nhiên.
Một mô hình phương trình ước tính tổng quát đã được sử dụng để so sánh những thay đổi trong từng kết quả tại các thời điểm khác nhau. Đánh giá quy trình được tiến hành bằng cách sử dụng dữ liệu từ biểu mẫu tự báo cáo và phỏng vấn của bệnh nhân.
Kết quả
Tác động của can thiệp lên các biến kết quả
Về lo âu, nhóm can thiệp cho thấy điểm số lo âu giảm đáng kể hơn nhóm đối chứng trong danh sách chờ ở cả T1 (tương tác nhóm theo thời gian β = −4,96, khoảng tin cậy 95% [CI]: −7,96 đến −1,96, P < 0,001, Hedges’ g = 0,78) và T2 (β = −5,10, 95% CI: −8,30 đến −1,91, P < 0,01, g = 0,78), nhưng không tìm thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm ở T3. Về trầm cảm, nhóm can thiệp giảm đáng kể hơn nhóm đối chứng tại T2 (β = −5,85, 95% CI: −8,93 đến −2,78, P < 0,001, g = 0,81), nhưng không có sự khác biệt đáng kể nào giữa các nhóm tại T1 hoặc T3. Về căng thẳng, nhóm can thiệp có điểm số căng thẳng giảm đáng kể hơn nhóm đối chứng tại T1 (β = −4,70, 95% CI: −7,74 đến −1,66, P < 0,01, g = 0,71), nhưng không có sự khác biệt đáng kể nào giữa các nhóm tại T2 hoặc T3.
Các phát hiện chỉ ra rằng tại T1 và T2, nhóm can thiệp giảm lo âu nhiều hơn đáng kể so với nhóm đối chứng.
Về khả năng ứng phó, nhóm can thiệp có sự gia tăng lớn hơn về điểm số ứng phó tập trung vào cảm xúc chức năng so với nhóm đối chứng tại T1, T2 và T3, mặc dù những khác biệt này không đáng kể. Những người tham gia trong nhóm can thiệp cho thấy sự giảm đáng kể về điểm số ứng phó rối loạn chức năng so với nhóm đối chứng tại T2 (β = − 2,53, 95% CI: − 4,29 đến − 0,77, P = 0,01), nhưng không quan sát thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm tại T1 hoặc T3.
Nhóm can thiệp có sự gia tăng đáng kể về điểm chất lượng cuộc sống so với nhóm đối chứng ở cả T1 (β = 7,61, 95% CI: 2,76 đến 12,46, P < 0,01) và T2 (β = 9,59, 95% CI: 3,62 đến 15,57, P < 0,01), nhưng không tìm thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm ở T3.
Ngoài ra, nhóm can thiệp cho thấy mức giảm đáng kể về trầm cảm tại T2, căng thẳng tại T1 và khả năng đối phó kém tại T2, và cải thiện điểm chất lượng cuộc sống nhiều hơn tại T1 và T2 khi so sánh với nhóm đối chứng.
Hầu hết những người tham gia được phỏng vấn đều đưa ra phản hồi tích cực về can thiệp.
Biểu mẫu tự báo cáo của những người tham gia ghi lại rằng trong tuần đầu tiên sau khi hóa trị, nhiều bệnh nhân báo cáo rằng họ không thể tập luyện hàng ngày do mệt mỏi và đau đớn.
Sử dụng phương pháp lấy mẫu có chủ đích để tuyển dụng những người tham gia phỏng vấn đã đảm bảo có nhiều đặc điểm nhân khẩu học và lâm sàng đa dạng như độ tuổi, trình độ học vấn, giai đoạn ung thư và phác đồ hóa trị. Quá trình tuyển dụng được tiếp tục cho đến khi đạt đến mức bão hòa dữ liệu. Tổng cộng có mười một bệnh nhân tham gia phỏng vấn tại bệnh viện. Dữ liệu phỏng vấn được phân loại thành bốn chủ đề.
Chủ đề 1: Lợi ích nhận thấy được của can thiệp
Những người tham gia báo cáo nhiều lợi ích từ can thiệp. Về trạng thái tâm trạng, những người tham gia cảm thấy thoải mái, giảm lo lắng và căng thẳng, lạc quan hơn và có nhiều suy nghĩ tích cực hơn. Về mặt thể chất, những người tham gia nhận thấy chất lượng giấc ngủ được cải thiện và cảm giác lạnh giảm. Ngoài ra, can thiệp tác động tích cực đến mối quan hệ gia đình của họ, với hai người tham gia bày tỏ rằng các thành viên trong gia đình họ hạnh phúc hơn và gắn kết hơn.
Chủ đề 2: Các yếu tố của một can thiệp thành công
Những người tham gia đã xác định các yếu tố chính góp phần vào sự thành công của can thiệp. Họ đánh giá tích cực về thời lượng và tài liệu can thiệp, thấy chúng phù hợp với tình trạng thể chất của họ. Giọng nói được ghi âm và âm nhạc được chọn đã nâng cao trải nghiệm của họ bằng cách tạo ra bầu không khí dễ chịu. Sự kết hợp giữa PML-PMR được nhấn mạnh là rất quan trọng để thư giãn. Do đó, họ coi việc nghe nhạc và thư giãn cơ tiến triển là phụ thuộc lẫn nhau. Sự hỗ trợ của gia đình là rất quan trọng, vì các thành viên trong gia đình nhắc nhở những người tham gia luyện tập hàng ngày và giúp tạo ra một môi trường không bị sao nhãng. Hơn nữa, các yếu tố tạo điều kiện cho việc tự thực hành tại nhà, bao gồm khả năng thực hành trong môi trường chuẩn và dễ dàng tiếp cận tài liệu, cũng được báo cáo là có lợi.
Chủ đề 3: Khó khăn khi thực hành tại nhà
Hai bệnh nhân báo cáo rằng họ bị chuột rút ở lưng và cảm thấy hơi đau ở cơ vào ngày đầu tiên thực hành. Những thách thức và tác dụng phụ này đã ảnh hưởng đến việc tuân thủ can thiệp của họ.
Chủ đề 4: Nhận xét về can thiệp
Một người tham gia đã cung cấp phản hồi cho rằng để tối đa hóa hiệu quả của can thiệp, bệnh nhân nên thực hành dưới sự hướng dẫn và giám sát của người hướng dẫn. Người tham gia này bày tỏ lo ngại rằng việc thực hành tại nhà mà không có hướng dẫn có thể khiến cá nhân thực hiện sai các bước.
Kết luận
Can thiệp có lợi cho việc giảm lo âu, trầm cảm và căng thẳng, đồng thời tăng chất lượng cuộc sống của những phụ nữ đang được hóa trị ung thư vú và ung thư phụ khoa.
Bàn luận
Dựa trên mô hình giao dịch về căng thẳng và ứng phó, đây là thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên dựa trên bằng chứng, lý thuyết đầu tiên về tác động của PML-PMR tại nhà để quản lý trạng thái tâm trạng tiêu cực mà bệnh nhân ung thư vú và ung thư phụ khoa đang điều trị bằng hóa trị gặp phải. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng can thiệp đã làm giảm đáng kể tình trạng lo lắng, trầm cảm, căng thẳng và ứng phó không hiệu quả của những người tham gia và cải thiện chất lượng cuộc sống của họ trong các đánh giá ngắn hạn. Người ta cũng quan sát thấy sự cải thiện trong ứng phó tập trung vào cảm xúc, mặc dù điều này không có ý nghĩa thống kê.
Kết quả cũng cho thấy rằng biện pháp can thiệp này có hiệu quả và hữu ích trong việc giảm mức độ căng thẳng ở những bệnh nhân ung thư đang được hóa trị. Trong các nghiên cứu khác, PML-PMR được phát hiện có hiệu quả trong việc giảm căng thẳng ở những nhóm dân số khác, chẳng hạn như ĐD chăm sóc đặc biệt và sinh viên điều dưỡng trước kỳ thi.
Những phát hiện này chỉ ra khả năng ứng dụng phương pháp kết hợp này trong nhiều bối cảnh và nhóm dân số khác nhau. Nghe nhạc êm dịu có thể kích thích vùng dưới đồi và hệ thống ngoại vi của bệnh nhân để giảm mức cortisol của họ. Thư giãn cơ tiến triển có thể làm giảm căng cơ bằng cách giúp mọi người nhận thức rõ hơn về cảm giác cơ thể của họ và thúc đẩy ý thức chánh niệm.
Nghiên cứu hiện tại cho thấy sự cải thiện đáng kể về chất lượng cuộc sống tổng thể của những người tham gia trong nhóm can thiệp so với nhóm đối chứng trong danh sách chờ ở T1 và T2. Mặc dù không có nghiên cứu nào trước đây đánh giá tác động của PML-PMR đối với chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư, nhưng một sự cải thiện đáng kể tương tự đã được tìm thấy trong các nghiên cứu trước đây trên phụ nữ mang thai và người chăm sóc gia đình.
Nghe nhạc thụ động và thư giãn cơ tiến triển đã được chứng minh là cải thiện nhiều khía cạnh về sức khỏe thể chất, xã hội/gia đình, cảm xúc và chức năng, chẳng hạn như buồn nôn, nôn và đau ; tâm trạng; cảm giác thoải mái; và mất ngủ.
Hơn cả y học âm nhạc, liệu pháp âm nhạc thiết lập mối quan hệ trị liệu và nhà trị liệu âm nhạc được đào tạo hỗ trợ khách hàng trong suốt quá trình can thiệp trong môi trường tối ưu. Tuy nhiên, số lượng nhà trị liệu âm nhạc còn hạn chế, đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam và dịch vụ trị liệu âm nhạc không được bảo hiểm ở nhiều quốc gia khiến việc tiếp cận các dịch vụ này trở nên khó khăn. Trong bối cảnh này, sử dụng nghe nhạc thụ động có thể là một giải pháp thay thế hiệu quả. Để giải quyết những hạn chế của can thiệp tại nhà, chẳng hạn như thiếu sự hỗ trợ trực tiếp của người can thiệp và sự tuân thủ can thiệp của những người tham gia, nghiên cứu của chúng tôi đã sử dụng nhiều chiến lược khác nhau. Ngoài các chiến lược thường được sử dụng bao gồm gọi điện thoại và phân phát hướng dẫn và biểu mẫu để nhắc nhở người tham gia, chúng tôi đã tìm kiếm sự hỗ trợ từ các thành viên gia đình của những người tham gia. Những lời nhắc nhở và động viên của các thành viên gia đình đã góp phần làm tăng sự tuân thủ của bệnh nhân. Ngoài ra, các thành viên trong gia đình cũng giúp người tham gia luyện tập trong một căn phòng yên tĩnh, thoải mái mà không bị làm phiền, giúp họ tập trung hơn. Môi trường này là điều kiện lý tưởng để đạt được mức độ thư giãn tốt nhất thông qua can thiệp.
Nguồn
Nguyen, K.T., Chan, D.N.S., Cheung, A.T. et al. Randomised controlled trial of music listening combined with progressive muscle relaxation for mood management in women receiving chemotherapy for cancer. Support Care Cancer 33, 245 (2025). https://doi.org/10.1007/s00520-025-09281-4