Danh sách các thiết bị y tế ưu tiên của WHO trong điều trị ung thư
Các bệnh không lây nhiễm (NCD) – chủ yếu là các bệnh tim mạch, ung thư, bệnh hô hấp mãn tính và tiểu đường – là nguyên nhân gây tử vong lớn nhất trên toàn thế giới. Khoảng 38 triệu ca tử vong hàng năm do các bệnh không lây nhiễm (NCD) (chiếm 68% số ca tử vong toàn cầu), bao gồm 16 triệu người tử vong sớm trước 70 tuổi.
Hầu hết các ca tử vong sớm do các bệnh không lây nhiễm này xảy ra ở các nước thu nhập thấp và trung bình (LMIC), nơi gánh nặng của các bệnh không lây nhiễm đang gia tăng một cách không cân xứng. Hầu hết các ca tử vong sớm đều liên quan đến các yếu tố nguy cơ phổ biến, cụ thể là hút thuốc lá, chế độ ăn uống không lành mạnh, ít vận động và uống rượu bia ở mức độ có hại. Để tăng cường nỗ lực quốc gia nhằm giải quyết gánh nặng của các bệnh không lây nhiễm (NCD), Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua
Tuyên bố Chính trị về NCDs vào năm 2011.
Đại hội đồng Y tế Thế giới lần thứ 66 đã thông qua Kế hoạch Hành động Toàn cầu của WHO về Phòng ngừa và Kiểm soát NCDs giai đoạn 2013-2020 (nghị quyết WHA66.10) và Khung Giám sát Toàn cầu về NCDs, theo dõi việc thực hiện Kế hoạch. Việc theo dõi sẽ được thực hiện thông qua việc giám sát và báo cáo về việc đạt được chín mục tiêu toàn cầu tự nguyện nhằm giảm 25% tỷ lệ tử vong sớm do các bệnh không lây nhiễm vào năm 2025 (“25 by 25”).
Một trong chín mục tiêu này liên quan cụ thể đến việc tiếp cận các công nghệ y tế:
80% khả năng tiếp cận các công nghệ cơ bản giá cả phải chăng và các loại thuốc thiết yếu, bao gồm cả thuốc generic, cần thiết để điều trị các bệnh không lây nhiễm nghiêm trọng tại cả các cơ sở công và tư.
Ung thư là thuật ngữ chung cho một nhóm lớn các bệnh có thể ảnh hưởng đến bất kỳ bộ phận nào của cơ thể. Các thuật ngữ khác được sử dụng là khối u ác tính và khối u tân sinh. Một đặc điểm nổi bật của ung thư là sự hình thành nhanh chóng các tế bào bất thường, phát triển vượt ra ngoài ranh giới thông thường của chúng, sau đó có thể xâm lấn các bộ phận lân cận của cơ thể và lan sang các cơ quan khác. Quá trình sau này được gọi là di căn. Di căn là nguyên nhân chính gây tử vong doung thư.
Với khoảng 14 triệu ca mắc mới, 8,2 triệu ca tử vong liên quan đến ung thư và 32,6 triệu người sống chung với
ung thư vào năm 2012, ung thư là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trên toàn thế giới, giết chết nhiều người hơn cả HIV/AIDS, sốt rét và lao cộng lại (Hình 2). Số ca mắc mới dự kiến sẽ tăng từ 14 triệu lên 22 triệu vào năm 2030; Đây là mức tăng khoảng 70% chỉ trong hai thập kỷ và số ca tử vong do ung thư trên toàn cầu dự kiến sẽ tăng 45% trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2030.
Năm loại ung thư phổ biến nhất được chẩn đoán ở nam giới vào năm 2012 là: ung thư phổi, tuyến tiền liệt, đại trực tràng, dạ dày và gan. Ở phụ nữ vào năm 2012 là: ung thư vú, đại trực tràng, phổi, cổ tử cung và dạ dày.
5 yếu tố nguy cơ hàng đầu gây ra khoảng một phần ba tổng số ca ung thư là:
🍀chỉ số khối cơ thể cao,
🍀ăn ít trái cây và rau củ,
🍀thiếu hoạt động thể chất,
🍀hút thuốc lá
🍀và uống rượu.
Hút thuốc lá là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất và gây ra gần 20% số ca tử vong do ung thư trên toàn cầu và 70% số ca tử vong do ung thư phổi trên toàn cầu. Nhiễm trùng do vi-rút như vi-rút viêm gan B và C (HBV/HCV) và vi-rút u nhú ở người (HPV) là nguyên nhân gây ra tới 20% số ca tử vong do ung thư ở nhiều nước thu nhập thấp và trung bình.
Hình 2. Ước tính tỷ lệ tử vong do ung thư trên toàn thế giới năm 2012. Cả hai giới, GLOBOCAN 2012. (12)
Ở hầu hết các quốc gia có thu nhập cao (HIC), ung thư là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu thứ hai sau bệnh tim mạch
. WHO ước tính rằng 70% số ca tử vong do ung thư trên toàn cầu xảy ra ở các nước thu nhập thấp và trung bình (LMIC), và hơn 60%
số ca mắc mới hàng năm trên toàn cầu xảy ra ở Châu Phi, Châu Á, Trung và Nam Mỹ (10).
Việc tiếp cận các phương pháp điều trị ung thư hiệu quả và giá cả phải chăng ở các nước đang phát triển sẽ làm giảm đáng kể
tỷ lệ tử vong (10, 11).
Theo Tổ chức Nghiên cứu Ung thư Vương quốc Anh, có 8,2 triệu ca tử vong do ung thư trên toàn thế giới, với hơn một nửa số ca tử vong xảy ra ở các nước có thu nhập thấp và trung bình. Một phân tích gần đây ước tính rằng ở các quốc gia có thu nhập cao, 69-82% số người tử vong sẽ được hưởng lợi từ việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ (Murtagh và cộng sự 2014). Người ta ước tính rằng trên toàn cầu, có 20 triệu người mắc bệnh giai đoạn cuối cần được chăm sóc giảm nhẹ trong năm cuối đời, và 20 triệu người khác cần được chăm sóc cuối đời hàng năm (WHO và WPCA 2014). Có sự chênh lệch lớn về khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ trên toàn thế giới (The Lien Foundation 2015). Trên toàn cầu,
phần lớn bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư đều ở giai đoạn cuối, không còn khả năng điều trị
chữa khỏi. Điều này có nghĩa là họ có thể gặp phải những đau đớn do đau đớn và các triệu chứng khác, cũng như
những lo lắng về tâm lý xã hội. Ở các quốc gia có thu nhập thấp, nhiều bệnh nhân ung thư thậm chí không thể nhận được điều trị chống ung thư cơ bản. Ở những quốc gia này, chăm sóc giảm nhẹ là lựa chọn hàng đầu cho những người có hoàn cảnh kinh tế khó khăn
(Payne và cộng sự 2012). Dường như ngày càng có sự công nhận rằng chăm sóc giảm nhẹ nên được cung cấp sớm
trong quá trình phát triển của bệnh và mang lại cơ hội cải thiện không chỉ việc kiểm soát các triệu chứng thể chất mà
còn tăng cường giao tiếp, chăm sóc tâm lý xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Một nghiên cứu có ảnh hưởng về việc tích hợp sớm chăm sóc giảm nhẹ vào điều trị ung thư cho bệnh nhân ung thư phổi đã chứng minh rằng việc bổ sung các buổi tư vấn chăm sóc giảm nhẹ vào liệu pháp điều trị ung thư tiêu chuẩn đã cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống và tăng thời gian sống thêm vài tháng so với nhóm đối chứng ở Hoa Kỳ (Temel và cộng sự, 2010).
Sự sẵn có của các thiết bị y tế chuyên dụng cho bệnh ung thư
Thiết bị y tế là không thể thiếu để sàng lọc, chẩn đoán, điều trị, giảm nhẹ và phục hồi chức năng hiệu quả bệnh tật. Tỷ lệ tử vong do ung thư có thể giảm đáng kể nếu các trường hợp được phát hiện và điều trị kịp thời, nhưng nhiều ca tử vong có thể phòng ngừa được lại xảy ra do thiếu các công nghệ sàng lọc, chẩn đoán
và điều trị bệnh.
Việc chẩn đoán sớm ung thư giúp cải thiện kết quả điều trị, tuy nhiên, nhiều bệnh nhân ở các vùng có thu nhập thấp
không được tiếp cận với các phương pháp xét nghiệm, giải phẫu bệnh, X-quang hoặc các phương pháp chẩn đoán khác để chẩn đoán sớm.
Do đó, phần lớn bệnh nhân mắc khối u ác tính ở các nước đang phát triển đến khám ở giai đoạn muộn với bệnh nan y. Các công cụ chẩn đoán tại chỗ (POC) cho phép phát hiện và theo dõi ở
cấp độ chăm sóc sức khỏe ban đầu, và đặc biệt hữu ích khi bệnh nhân phải di chuyển xa để đến được cơ sở y tế có phòng xét nghiệm được trang bị tốt. Việc phát triển các công cụ chẩn đoán đơn giản, giá cả phải chăng là cần thiết để hỗ trợ sàng lọc ung thư ở những nơi có gánh nặng ung thư cao nhất.
Các phương pháp điều trị ung thư phổ biến nhất là phẫu thuật, liệu pháp toàn thân và xạ trị, và khả năng chữa khỏi được phân loại như sau: phẫu thuật (49%), xạ trị (40%) và hóa trị (11%). Tuy nhiên, nhiều công nghệ cần thiết cho các phương pháp điều trị này lại không thể tiếp cận được ở các nước đang phát triển. Ví dụ, xạ trị có khả năng mang lại lợi ích cho khoảng 60% bệnh nhân ung thư trong quá trình điều trị, nhưng các nước thu nhập thấp và trung bình (LMIC) lại phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt đơn vị xạ trị lớn nhất, với khoảng 30 quốc gia ở Châu Phi và Đông Nam Á không có dịch vụ xạ trị. Dự án này cũng đang giải quyết nhu cầu về công nghệ để giảm nhẹ các bệnh nan y, và cải thiện, kéo dài chất lượng cuộc sống. Ước tính hiện có khoảng 1,5 triệu thiết bị y tế khác nhau, thuộc hơn 10.000 loại nhóm thiết bị chung.
Năm 2008, WHO đã khởi xướng nỗ lực toàn cầu đầu tiên nhằm xác định nhu cầu toàn cầu về thiết bị y tế, tức là ưu tiên và lựa chọn các thiết bị y tế thiết yếu, giá cả phải chăng và quan trọng nhất, xét đến gánh nặng bệnh tật của từng quốc gia. Năm 2010, một cuộc khảo sát toàn cầu đầu tiên về thiết bị y tế đã cho thấy những khoảng cách lớn về khả năng tiếp cận và khả năng tiếp cận thiết bị y tế ở các quốc gia, cũng như sự khác biệt lớn giữa các quốc gia về năng lực quản lý, chính sách quốc gia, danh mục quốc gia và thông số kỹ thuật cho việc mua sắm và hoàn trả thiết bị y tế. Theo báo cáo của Đài quan sát Y tế Toàn cầu, các bản đồ sau đây thể hiện mật độ các công nghệ chi phí cao, một số trong đó là không thể thiếu để điều trị ung thư (thiết bị chụp nhũ ảnh, xạ trị và chụp cắt lớp vi tính) và các công nghệ khác hầu như chỉ có ở các quốc gia có thu nhập trung bình-cao và cao (máy ảnh gamma, chụp cộng hưởng từ và chụp cắt lớp phát xạ positron).
Nguồn https://www.who.int/publications/i/item/9789241565462