JAMA – Rượu và Nguy cơ Ung thư
Kenneth L. Morford, MD; Jeanette M. Tetrault, MD; Patrick G. O’Connor, MD, MPH
Program in Addiction Medicine, Yale School of Medicine, New Haven, Connecticut
Section of General Internal Medicine, Yale School of Medicine, New Haven, Connecticut.
Năm 2025, Ban cố vấn của Tổng Y sĩ Hoa Kỳ về nguy cơ ung thư và rượu đã khuyến nghị cập nhật nhãn cảnh báo trên đồ uống có cồn để bao gồm ung thư, tư vấn cho bệnh nhân về rượu như một yếu tố nguy cơ ung thư và thúc đẩy các chiến lược can thiệp vào rượu trong các cơ sở lâm sàng. Dưới đây, chúng tôi tóm tắt các bằng chứng liên quan đến khuyến nghị này.
🍀Ung thư liên quan đến rượu
Ung thư liên quan đến rượu bao gồm ung thư miệng, hầu, thanh quản, thực quản, vú, đại trực tràng và gan. Năm 2020, ước tính có 740.000 ca ung thư trên toàn cầu (4,1%) là do uống rượu, phần lớn xảy ra ở nam giới (76,7%). Tại Hoa Kỳ, rượu được xác định là yếu tố nguy cơ ung thư có thể điều chỉnh đứng thứ ba sau hút thuốc lá và thừa cân, chiếm 5,4% số ca mắc và 4,1% số ca tử vong ở người lớn từ 30 tuổi trở lên vào năm 2019.
🍀Cơ chế sinh học được đề xuất
Tác động gây ung thư chính của rượu (ethanol) được cho là do chất chuyển hóa acetaldehyde, có thể phá vỡ quá trình tổng hợp, sửa chữa và methyl hóa DNA. Những người mang biến thể ALDH2*2, phổ biến nhất ở người Đông Á, chuyển hóa acetaldehyde chậm hơn, gây ra tác động gây ung thư lớn hơn ở lượng rượu thấp hơn.4 Ngoài ra, rượu có thể gây viêm và stress oxy hóa.
Việc sử dụng rượu nhiều (5 ly trở lên/ngày), thường trong khoảng thời gian ít nhất từ 5 đến 10 năm, có thể gây xơ gan, một yếu tố nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan. Rượu cũng làm tăng nồng độ estrogen, tăng nguy cơ ung thư vú và hoạt động như một dung môi cho các chất gây ung thư khác, chẳng hạn như trong thuốc lá, làm tăng nguy cơ ung thư miệng và đường tiêu hóa.
Các cơ chế gây ung thư khác được đề xuất của rượu bao gồm phá vỡ quá trình chuyển hóa một carbon và folate cần thiết cho quá trình methyl hóa và tổng hợp DNA; chuyển hóa retinoid bị thay đổi ảnh hưởng đến sự phát triển, biệt hóa và chết rụng tế bào; suy giảm chức năng miễn dịch; và chứng loạn khuẩn đường ruột và miệng, làm tăng nồng độ acetaldehyde và tình trạng viêm.
🍀Mối quan hệ Liều lượng – Đáp ứng và Các Loại Đồ Uống
Nguy cơ ung thư tăng lên khi lượng rượu tiêu thụ tăng lên. Mặc dù một số nghiên cứu phân loại đồ uống có cồn thành mức độ nhẹ, vừa phải và nặng, nhưng những lượng này không được chuẩn hóa và định nghĩa khác nhau giữa các nghiên cứu. Ngoài ra, định nghĩa về một ly tiêu chuẩn và mức độ tiêu thụ rượu cũng khác nhau giữa các quốc gia. Hướng dẫn Chế độ Ăn uống cho Người Mỹ định nghĩa một ly tiêu chuẩn là 14 g ethanol, tương đương với khoảng 350 ml bia, 140 ml rượu vang và 45 ml rượu mạnh chưng cất. Tại Hoa Kỳ, việc sử dụng nhiều rượu được định nghĩa là 5 ly trở lên mỗi ngày hoặc 15 ly trở lên mỗi tuần đối với nam giới, và 4 ly trở lên mỗi ngày hoặc 8 ly trở lên mỗi tuần đối với nữ giới. Mặc dù mức tiêu thụ vừa phải và nhẹ không được phân biệt rõ ràng ở Hoa Kỳ, Hướng dẫn Chế độ Ăn uống cho Người Mỹ đề cập đến “uống có chừng mực” là không quá 2 ly mỗi ngày đối với nam giới và 1 ly mỗi ngày đối với nữ giới.
🍀Những thách thức trong việc đánh giá nguy cơ ung thư liên quan đến rượu bia
Do bằng chứng dựa trên các nghiên cứu quan sát, nguy cơ sai lệch ảnh hưởng đến việc đánh giá các mối liên hệ này, đặc biệt là ở mức tiêu thụ rượu bia thấp hơn. Các yếu tố gây nhiễu tiềm ẩn bao gồm hút thuốc lá, chỉ số khối cơ thể (BMI), hoạt động thể chất, chế độ ăn uống và trình độ học vấn. Ngoài ra, sai lệch do kiêng rượu bia, bao gồm những người đã ngừng uống rượu bia hoặc chưa bao giờ uống rượu bia do tình trạng sức khỏe, càng làm phức tạp thêm các phân tích khi những người này được đưa vào nhóm so sánh. Các nguồn sai lệch tiềm ẩn khác bao gồm việc báo cáo thiếu mức tiêu thụ rượu bia và sai lệch lựa chọn.
🍀Nguy cơ ung thư liên quan đến rượu bia và mức tiêu thụ rượu bia
Uống nhiều rượu bia có liên quan đến nguy cơ cao nhất đối với cả 7 loại ung thư (Phụ lục). Ở mức tiêu thụ rượu bia thấp hơn, kết luận từ các phân tích tổng hợp và báo cáo chuyên gia thường khác nhau, tùy thuộc vào loại ung thư. Để thuận tiện cho việc diễn giải các rủi ro tương đối, nguy cơ ung thư trọn đời của dân số toàn cầu (bất kể mức độ sử dụng rượu bia) và các trường hợp toàn cầu do rượu bia theo loại ung thư được trình bày trong Phụ lục.
Tiêu thụ nhiều
Trong một phân tích tổng hợp năm 2015 của 572 nghiên cứu ca-đối chứng và nghiên cứu đoàn hệ được công bố từ năm 1956 đến năm 2012, việc uống hơn 50 g rượu (khoảng >3,5 ly) mỗi ngày, so với việc không uống rượu hoặc uống rượu thỉnh thoảng, có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư miệng và hầu họng, thanh quản, thực quản, vú ở phụ nữ, đại trực tràng và gan (Phụ lục). Báo cáo Chuyên gia Thứ ba năm 2018 của Quỹ Nghiên cứu Ung thư Thế giới (WCRF), một bản tổng hợp toàn diện bao gồm phân tích tổng hợp năm 2015, đã tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ ủng hộ việc tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng liên quan đến việc tiêu thụ khoảng hơn hoặc bằng 30 g (≥2 ly) mỗi ngày và ung thư gan liên quan đến việc tiêu thụ khoảng hơn hoặc bằng 45 g (≥3 ly) mỗi ngày.
🍀Tiêu thụ rượu từ Thấp đến Trung bình
Một báo cáo năm 2025 của Viện Hàn lâm Khoa học, Kỹ thuật và Y học Quốc gia (NASEM) đã xem xét một cách có hệ thống 23 nghiên cứu theo nhóm và 2 nghiên cứu đối chứng, được công bố từ năm 2010 đến năm 2014, tập trung cụ thể vào việc tiêu thụ rượu dưới hoặc bằng 28 g/ngày (≤2 ly/ngày) ở nam giới hoặc dưới hoặc bằng 14 g/ngày (≤1 ly/ngày) ở nữ giới và nguy cơ ung thư.
Báo cáo của NASEM chỉ xem xét các nghiên cứu sử dụng nhóm “chưa bao giờ uống rượu” trong nhóm so sánh, không giống như phân tích tổng hợp năm 2015, bao gồm những cá nhân đã từng hoặc thỉnh thoảng uống rượu trong nhóm so sánh. Tuy nhiên, việc giới hạn các nghiên cứu ở nhóm chưa bao giờ uống rượu đã mang lại ít nghiên cứu và do đó hạn chế bằng chứng.
Trong báo cáo của NASEM, việc uống ít hơn hoặc bằng 14 g/ngày (≤1 ly/ngày) ở phụ nữ có liên quan đến nguy cơ ung thư vú tăng 10% dựa trên phân tích tổng hợp của 4 nghiên cứu theo nhóm (n ≥100937) và nguy cơ tăng 5% cho mỗi 10 đến 14 g tiêu thụ hàng ngày cao hơn (bắt đầu từ 0 g/ngày) dựa trên phân tích tổng hợp của 7 nghiên cứu theo nhóm (n ≥409592).6 Đối với ung thư khoang miệng, hầu, thanh quản và thực quản, không có đủ bằng chứng để hỗ trợ mối liên quan giữa việc tiêu thụ rượu ít hơn hoặc bằng 28 g/ngày (≤2 ly/ngày) ở nam giới hoặc ít hơn hoặc bằng 14 g/ngày (≤1 ly/ngày) ở phụ nữ.
Phân tích tổng hợp năm 2015 cũng báo cáo tương tự về mối liên hệ tích cực giữa nguy cơ ung thư vú và cả mức tiêu thụ rượu nhẹ (≤12,5 g/ngày [khoảng ≤1 ly/ngày]) và vừa phải (>12,5 đến ≤50 g/ngày [khoảng >1 đến ≤3,5 ly/ngày]), và nguy cơ ung thư đại trực tràng tăng lên khi tiêu thụ vừa phải nhưng không phải nhẹ. Trái ngược với báo cáo của NASEM, phân tích tổng hợp năm 2015 báo cáo rằng bất kỳ mức tiêu thụ nào cũng có liên quan đến việc tăng nguy cơ ung thư miệng, họng và thực quản theo cách phản ứng liều lượng. Tuy nhiên, khi các nghiên cứu theo nhóm được phân tích riêng biệt với các nghiên cứu ca chứng, mối liên hệ không còn có ý nghĩa thống kê đối với việc uống rượu nhẹ và vừa phải với ung thư miệng và họng hoặc uống rượu nhẹ với ung thư thực quản. WCRF năm 2018 kết luận rằng bằng chứng thuyết phục ủng hộ việc tăng nguy cơ ung thư miệng, họng, thanh quản, thực quản và vú ở phụ nữ với bất kỳ lượng nào của việc tiêu thụ rượu, theo sau mối quan hệ liều lượng-rủi ro với mỗi 10 g rượu tăng thêm được tiêu thụ mỗi ngày bắt đầu từ lượng tiêu thụ bằng 0. Nghiên cứu cũng báo cáo nguy cơ tăng lên ở bất kỳ mức tiêu thụ rượu nào đối với khối u vú dương tính với thụ thể estrogen nhưng không phải khối u vú âm tính với thụ thể estrogen, với bằng chứng mạnh nhất đối với ung thư vú sau mãn kinh.
Các bác sĩ lâm sàng nên thảo luận với bệnh nhân về nguy cơ ung thư liên quan đến việc sử dụng rượu bia.
Đối với những người lựa chọn uống rượu bia, Hướng dẫn Chế độ Ăn uống cho Người Mỹ khuyến cáo không nên uống quá 2 ly mỗi ngày đối với nam giới và 1 ly mỗi ngày đối với nữ giới. Tuy nhiên, ngay cả ở mức tiêu thụ rượu bia này, nguy cơ ung thư vẫn có thể tăng lên ở những bệnh nhân hút thuốc lá, mang biến thể gen ALDH2*2 (biểu hiện qua phản ứng đỏ bừng mặt khi uống rượu bia), có tiền sử gia đình mắc ung thư liên quan đến rượu bia hoặc rối loạn sử dụng rượu bia (AUD), hoặc mắc các bệnh lý khác liên quan đến rượu bia, chẳng hạn như bệnh gan.
Các bác sĩ lâm sàng nên sàng lọc việc sử dụng rượu bằng các công cụ đã được xác nhận, chẳng hạn như Câu hỏi Sàng lọc Rượu, và thực hiện các can thiệp ngắn cho những người vượt quá giới hạn khuyến nghị. Viện Quốc gia về Lạm dụng Rượu và Nghiện rượu cung cấp hướng dẫn về việc thực hiện các can thiệp ngắn. Những người có kết quả sàng lọc dương tính nên được đánh giá về Rối loạn sử dụng rượu (AUD), và những người đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán nên được cung cấp điều trị bằng thuốc (ví dụ: naltrexone, acamprosate, disulfiram) và các nhóm tư vấn và/hoặc hỗ trợ chuyên khoa.
Kết luận
Bất kỳ lượng rượu tiêu thụ hàng ngày nào cũng có liên quan đến một số bệnh ung thư, và nguy cơ ung thư tăng lên khi lượng rượu tiêu thụ tăng cao. Việc giáo dục bệnh nhân, sàng lọc sử dụng rượu thường xuyên và điều trị chứng nghiện rượu (AUD), nếu được chỉ định, có thể làm giảm những nguy cơ này và tăng cường sức khỏe tổng thể.
Nguồn JAMA Published Online: August 6, 2025 doi: 10.1001/jama.2025.11229