Nội soi phế quản không gây mê ở những người tình nguyện khỏe mạnh
Một cách tiếp cận khả thi cho nghiên cứu
Tác giả Dean Kellogg, III, MD
Nội soi phế quản chẩn đoán là nền tảng của y học phổi, nhưng có thể gây lo lắng cho bệnh nhân. Sự khó chịu và ho của bệnh nhân có thể dẫn đến tình trạng chèn ép ống soi phế quản không tối ưu và có thể làm giảm hiệu quả chẩn đoán. The British Thoracic Society (mức B)1 và American College of Chest Physicians2 khuyến cáo nên chuẩn độ thuốc an thần vừa phải qua đường tĩnh mạch để dễ chịu, nhưng điều này có thể gây ra một loạt các tác dụng phụ tiềm ẩn, bao gồm suy hô hấp, hạ huyết áp và nôn.
Ngược lại, gây tê tại chỗ có thời gian tác dụng ngắn hơn và chỉ số điều trị rộng hơn.3 Mặc dù nội soi đường hô hấp trên thường được thực hiện mà không cần an thần, nhưng khả năng dung nạp của việc lấy mẫu đường hô hấp dưới mà không cần an thần vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Dựa trên các nghiên cứu nhỏ trước đây về nội soi phế quản không dùng thuốc an thần ở những người tình nguyện khỏe mạnh,4 các tác giả đã thiết kế nghiên cứu triển vọng này để tối ưu hóa gây tê tại chỗ đường thở bằng cách sử dụng dung dịch lidocaine được cung cấp qua máy phun sương hiệu suất cao, bình phun sương và ống soi phế quản cũng như thạch qua kẹo que và ống soi phế quản.
Mục đích là mô tả giao thức nội soi phế quản nghiên cứu không dùng thuốc an thần chỉ sử dụng lidocaine tại chỗ và báo cáo tính an toàn và hiệu quả của BAL trong việc thu thập đại thực bào phế nang ở người (human alveolar macrophages HAM).
Phương pháp
Đánh giá tính an toàn và khả năng dung nạp trước khi nghiên cứu
Trước khi tiến hành nghiên cứu, nội soi phế quản không gây mê đã được thực hiện trên một nhà nghiên cứu (J. I. P.; tuổi, 68) để đánh giá tính an toàn. Nhà nghiên cứu báo cáo mức độ khó chịu là “1 đến 2 trên 5” và lidocaine huyết thanh là 2,2 μg/mL khi kết thúc quy trình và không phát hiện được sau 30 phút (mức độ độc hại trong huyết thanh, > 5 μg/mL).
Trong quá trình tối ưu hóa giao thức trước khi nghiên cứu, nhóm NC thấy rằng lidocaine dạng khí dung 4% gây mê tốt hơn cho đường thở dưới so với dung dịch 2%.
Giao thức nghiên cứu
Những người tình nguyện đủ điều kiện có độ tuổi từ 18 đến 50, không có bệnh lý đi kèm và sức khỏe tốt. Tất cả những người tham gia đều trải qua quá trình phỏng vấn tiền sử bệnh, khám sức khỏe, phân tích hóa học huyết thanh, đo chức năng hô hấp và xét nghiệm CO2 thở ra.
Nội soi phế quản được tiến hành tại Đơn vị nghiên cứu lâm sàng Barter (South Texas Veterans Health Care System and University of Texas Health at San Antonio) dưới sự giám sát của Hội đồng đánh giá thể chế của Đại học Texas Health tại San Antonio (Mã số: HSC20170667H).
Tổng liều lidocaine là 2,65 mg/kg (liều độc tối thiểu là 6,4 mg/kg).
Gây tê tại chỗ được thực hiện thông qua việc sử dụng lidocaine tuần tự dạng phun sương, dạng uống, dạng nguyên tử và nội soi phế quản (Hình 1). Nội soi phế quản được thực hiện bởi một bác sĩ chuyên khoa phổi có kinh nghiệm bằng cách sử dụng ống soi phế quản Olympus BF-P60 (đường kính 4,9 mm) với phương pháp tiếp cận qua đường mũi. BAL được thực hiện ở thùy giữa phải.
Hình 1 Sơ đồ cho thấy phác đồ gây tê tại chỗ. Dung dịch phun sương được tạo thành từ 1 mL NS và 4 mL lidocaine 4% và được cung cấp bằng máy phun sương kích hoạt bằng hơi thở Monaghan Medical Aero Eclipse với khí nén ở mức 50 pound trên inch vuông và 8 L/phút. Một que mút nhúng trong lidocaine được đưa nhiều lần vào nắp thanh quản cho đến khi tê, sau đó 2 mL dung dịch lidocaine 2% được phun vào cả hai lỗ mũi bằng ống tiêm và thiết bị chính thống. Hai tăm bông vô trùng phủ lidocaine được đưa vào mỗi lỗ mũi trong 1 đến 2 phút. Hút thủ công được thực hiện bằng ống tiêm 60 mL ngay sau khi nhỏ thuốc. Các mẫu BAL được bảo quản trong đá trước khi đếm tế bào. Đầu ống soi phế quản được phủ một lớp thạch lidocaine 2%. Dung dịch lidocaine đường thở được nhỏ thành sáu phần, mỗi phần 2 mL dung dịch lidocaine 2% lên dây thanh quản, cũng như carina chính và giữa phải với tối đa 10 đến 15 lần xịt. Sau khi chèn vào thùy giữa phải, ba phần 50 mL dung dịch NS 0,9% vô trùng được nhỏ nhanh trong 5 đến 10 giây và hút thủ công sau thời gian dừng 5 giây bằng ống tiêm 60 mL. Nếu lượng dịch hồi về < 75 mL, hút thành được áp dụng bằng bẫy rửa 40 mL (xảy ra ở một người tham gia). NS = nước muối sinh lý.
Sau khi nội soi phế quản, những người tham gia được theo dõi trong 2 giờ và không được ăn cho đến khi hết tê. Theo dõi qua điện thoại được thực hiện vào ngày hôm sau để đánh giá các biến chứng và mức độ khó chịu (1 = không khó chịu, 5 = rất khó chịu).
Các mẫu BAL được vận chuyển trên đá, ly tâm và rửa hai lần ở 4 °C trong vòng 6 giờ và viên được huyền phù lại trong Roswell Park Memorial Institute 1640 với penicillin G (10.000 U/mL).
Các tế bào BAL được đếm trên máy đếm tế bào máu và 5 × 104 tế bào được chuyển vào các tế bào lát mỏng. Các tế bào lát mỏng được sấy khô, nhuộm bằng HEMA 3 (Fisher Health Care), rửa bằng nước, sấy khô và kiểm tra bằng kính hiển vi AE2000 (Motic).
Kết quả
Những người tình nguyện tham gia nghiên cứu (n = 25) còn trẻ (tuổi trung bình là 27,4 năm; độ tuổi từ 18-36) với sự phân bố giới tính bằng nhau (48% là nữ) và các giá trị đo chức năng hô hấp bình thường: FEV1, 98% (độ tuổi từ 76%-115%);
Tỷ lệ FEV1/FVC là 0,98 (độ tuổi từ 0,89-1,10). Không có người tham gia nào hút thuốc lá được đưa vào nghiên cứu vì nồng độ carbon monoxide thở ra < 5 phần triệu.
Một bệnh nhân có tiền sử lo lắng đã rút khỏi nghiên cứu trước khi đánh giá.
Chi tiết về sự thoải mái, các biến chứng và hiệu quả của nội soi phế quản được cung cấp trong Bảng 1.
Những người tham gia chủ yếu báo cáo cảm giác khó chịu nhẹ (giá trị Likert trung bình là 2,3), chủ yếu là từ đường đi qua các cuốn mũi.
Không có biến chứng ngay sau thủ thuật nào xảy ra, bệnh nhân cũng không báo cáo bất kỳ mối lo ngại nào vào ngày hôm sau.
Độ bão hòa oxy trong không khí phòng trung bình vẫn > 95% trong suốt quá trình. Hai người tham gia đã trải qua tình trạng mất bão hòa oxy tạm thời xuống mức bão hòa oxy từ 88% đến 89% và tự phục hồi mà không cần oxy bổ sung.
Một người tham gia báo cáo 4 trong số 10 lần khó chịu cũng đã trải qua tình trạng mất bão hòa oxy xuống mức 87% khi ho sau thủ thuật. Không có thay đổi nào so với ban đầu được ghi nhận đối với BP hoặc nhịp tim trước hoặc sau thủ thuật.
Mặc dù 26% mẫu BAL có chất lỏng hoặc chất nhầy lẫn máu, nhưng điều này không ảnh hưởng bất lợi đến sản lượng HAM, đạt yêu cầu (trung bình, 4,5 × 106 tế bào/mL). Phân tích Cytospin cho thấy tỷ lệ phần trăm trung bình của đại thực bào trong các mẫu BAL là 89% (phạm vi, 75%-98%).
Thảo luận
Trong nghiên cứu này liên quan đến những người tình nguyện khỏe mạnh, nội soi phế quản không dùng thuốc an thần hoặc oxy bổ sung bằng lidocaine tại chỗ đa phương thức được dung nạp tốt và chứng minh là phương pháp khả thi để phân lập HAM.
Không có quy trình nào bị chấm dứt sớm và không có báo cáo nào về tình trạng khó chịu nghiêm trọng.
Sản lượng HAM tương đương với các nghiên cứu khác liên quan đến những người tình nguyện khỏe mạnh5 và có thể chấp nhận được đối với các nghiên cứu ex vivo6. Phí cơ sở của quy trình (1.598 đô la từ Medicare) đã được loại bỏ, khiến đây trở thành một giao thức rất tiết kiệm chi phí.
Giao thức của các tác giả được thiết kế để gây tê toàn diện đường thở bằng lidocaine tuần tự qua máy phun sương, bình phun sương, kẹo que và ống soi phế quản trong khi đảm bảo giới hạn lidocaine dưới mức độc hại là 5 đến 7 mg/kg.7 Hầu hết những người tham gia nghiên cứu đều đạt được tình trạng gây tê đầy đủ và không bị ho.
Tuy nhiên, hai sự kiện giảm bão hòa oxy tự giới hạn có liên quan đến ho, cho thấy tình trạng gây tê không tối ưu ở những bệnh nhân này. Mặc dù oxy bổ sung là phương pháp thường quy trong hầu hết các giao thức nội soi phế quản, nhưng việc không bổ sung oxy không dẫn đến các tác dụng phụ nghiêm trọng.
Các nghiên cứu trước đây với những bệnh nhân bị hen suyễn báo cáo không có tác dụng phụ nào với liều lidocaine cao hơn (lên đến 8,2 mg/kg).
Vì nghiên cứu này sử dụng liều lidocaine thấp hơn nhiều so với ngưỡng, nên các NC trong tương lai có thể xem xét thêm lidocaine vào cuốn mũi và sử dụng bình xịt lidocaine 10% ở hầu họng, có thể hiệu quả hơn lidocaine dạng khí dung.8,9
Giao thức gây tê tại chỗ tối ưu vẫn chưa được biết và cần nghiên cứu thêm với sự so sánh các cơ chế cung cấp. Các nghiên cứu trong tương lai cũng có thể xem xét sử dụng ống soi phế quản mỏng hơn để mang lại sự thoải mái tối đa cho bệnh nhân.
Nghiên cứu của Dean có một số hạn chế. Đầu tiên, các tác giả không đánh giá mức độ đầy đủ của gây tê tại chỗ trước khi tiến hành nội soi phế quản, điều này có thể làm giảm bớt một đợt khó chịu vừa phải.
Thứ hai, chưa đánh giá sự thoải mái và hài lòng của người thực hiện, điều này có thể bị ảnh hưởng bất lợi so với các phương pháp dựa trên thuốc an thần.
Thứ ba, nghiên cứu này không điều tra những bệnh nhân mắc bệnh phổi, điều này sẽ cần các nghiên cứu sâu hơn với việc theo dõi trong quá trình thủ thuật chuyên sâu hơn.
Cuối cùng, bản chất của các quần thể tế bào nhỏ thu được không được nghiên cứu đầy đủ trong nghiên cứu này và sẽ được mô tả chi tiết hơn trong các nghiên cứu tiếp theo.
Tóm lại, nghiên cứu thí điểm này ủng hộ tính khả thi và nghiên cứu sâu hơn về nội soi phế quản nghiên cứu mà không cần dùng thuốc an thần. Bằng cách giảm thiểu nhu cầu dùng thuốc an thần, phương pháp này có khả năng cải thiện sự an toàn của bệnh nhân, tăng cường khả năng dung nạp thủ thuật và tạo điều kiện cho nội soi phế quản nghiên cứu.
This article was presented at the American Thoracic Society Meeting, San Francisco, California, May 13-18, 2022.
DOI: 10.1016/j.chpulm.2024.100075
Also available on ScienceDirect
Tham khảo
Thorax. 2013; 68:i1-i44
Chest. 2011; 140:1342-1350
Laryngoscope. 2007; 117:1159-1162
Clin Exp Immunol. 2012; 167:523-531
mBio. 2023; 14:e00834-e00923 PMID 37288969
Respir Med. 1998; 92:40-43
Chest. 2020; 157:198-204
Lung India. 2019; 36:288-294